Chiến thắng Thượng Đức đã đi vào lịch sử của vùng đất Quảng Nam-Đà Nẵng trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ và của cả nước với vị trí là trận thắng bước ngoặt, tạo đà cho chiến dịch giải phóng Đà Nẵng tiến tới tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông thu về một mối.
Tượng đài chiến thắng Thượng Đức. (Ảnh tư liệu) |
Sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết (27-1-1973), Đảng ta quán triệt tinh thần tuyệt đối tuân thủ những điều khoản mà các bên đã thống nhất, chủ trương đấu tranh chính trị quần chúng, không sử dụng đấu tranh vũ trang. Ngược lại, phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn trắng trợn phá hoại hiệp định. Tại chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng, chỉ hai giờ sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực, quân Việt Nam Cộng hòa tập trung càn quét các vùng tây Duy Xuyên, vùng B Đại Lộc và các vùng tranh chấp giữa hai bên. Trong nội thành Đà Nẵng, chúng thành lập lực lượng cảnh sát dã chiến, được trang bị đầy đủ đánh phá các lực lượng cách mạng, đàn áp nhân dân, lợi dụng thời cơ dồn dân chiếm đất.
Trước tình hình đó, nhằm đối phó với mưu đồ lật lọng của kẻ thù, Đảng ta quyết định chuyển sang chuẩn bị lực lượng cho trận quyết chiến chiến lược. Tại Hội nghị lần thứ 21 vào tháng 7-1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích tình hình và đề ra Nghị quyết về “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới”; khẳng định cách mạng miền Nam chỉ có thể giành thắng lợi bằng con đường vũ trang cách mạng. Tháng 8-1973, đồng chí Võ Chí Công, Bí thư Khu ủy khu V triệu tập Ban Thường vụ Đặc khu ủy Quảng Đà để truyền đạt tinh thần Hội nghị Trung ương 21 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ để đưa phong trào đấu tranh ở Quảng Nam và Đà Nẵng phát triển kịp với tình hình mới. Bộ máy tổ chức cán bộ, các lực lượng quân đội, biệt động, tự vệ được phục hồi và củng cố vị trí như trước khi ký Hiệp định Paris.
Thường vụ Khu ủy Khu V xác định nhằm đột phá dứt điểm khai thông toàn bộ chiến trường sau trận thắng Nông Sơn - Trung Phước thần tốc chỉ trong vòng 1 ngày đêm (từ đêm 17-7-1974 đến chiều ngày 18-7-1974), Thượng Đức được chọn là trận đánh tiếp theo và buộc phải thắng cả trên mặt trận quân sự lẫn chính trị bởi tính chất cực kỳ quan trọng của cứ điểm này. Nhiệm vụ quân sự là phải tiêu diệt gọn quân địch. Về chính trị là phải giải phóng cho được hơn một vạn dân trong khu dồn; đồng thời từ trận đánh này cho phép ta nhận định khả năng ứng phó của quân chủ lực của chính quyền Sài Gòn sau khi Mỹ rút để so sánh tương quan lực lượng đôi bên nhằm làm cơ sở để Trung ương đề ra những chủ trương, chiến lược mới trong chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Nói về Chi khu quận lỵ Thượng Đức: Nằm ở xã Đại Lãnh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam ngày nay, nơi ngã ba sông Côn gặp sông Vu Gia, cạnh tỉnh lộ 609, cách thành phố Đà Nẵng chừng 45km về phía tây nam. Phía tây dựa vào dãy Trường Sơn với nhiều vách đá dựng đứng, phía nam và đông bắc được bao bọc bởi các con sông. Theo đánh giá của địch, Thượng Đức là một “căn cứ bất khả xâm phạm” nằm trong thế phòng thủ chung thuộc Vùng I chiến thuật của chúng. Với địa hình hiểm trở như vậy, chỉ huy của ta nhận định căn cứ Thượng Đức chỉ có thể tiếp cận được từ phía tây. Qua tìm hiểu, nghiên cứu, ta đã có thông tin: Mỹ-chính quyền Sài Gòn có bố trí tiền đồn bảo vệ và hoàn toàn có thể phát hiện đối phương từ xa. Chúng xây dựng tại đây hệ thống 35 lô cốt lớn và hầm ngầm bằng bê-tông cốt thép hai tầng, hàng trăm lô cốt tiền duyên, ụ súng nửa chìm, nửa nổi. Tất cả mọi hoạt động khi xảy ra tác chiến đều ở dưới mặt đất, nên rất khó cho đối phương phát hiện mục tiêu.
Nói về cứ điểm này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kiêu hãnh đặt cho tên gọi “Mắt ngọc của đầu Rồng”. Còn Tỉnh trưởng Quảng Nam trước trận đánh khẳng định chắc nịch đây chính là “cánh cửa thép” bất khả xâm phạm, một điểm chiến lược dễ thủ khó công, là niềm tự hào, là chỗ dựa đáng tin cậy của Vùng I chiến thuật, của căn cứ quân sự liên hợp miền Trung. Nhờ “mắt ngọc” này, địch dễ dàng quan sát và đánh phá đường tiến quân của ta từ Bắc vào Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh. Hơn nữa, để tiến quân vào giải phóng Đà Nẵng buộc quân ta phải vượt qua được “thách thức” này vì đây là tiền đồn chiến lược bảo vệ căn cứ quân sự và sân bay Đà Nẵng.
Quân địch kiêu ngạo thách thức bao giờ nước Vu Gia chảy ngược thì Việt Cộng mới chiếm được Thượng Đức (!). Bởi chúng hoàn toàn tự tin với lối bố trí công sự cẩn mật, tập trung hỏa lực mạnh, quân số đông (có những thời điểm tính cả quân tại chỗ và lực lượng ứng cứu của địch lên đến 16 ngàn tên, trận địa pháo tầm xa và pháo cơ động của Sư đoàn 3 lính ngụy từ 65 – 70 khẩu các loại...); ngoài ra, địch còn chuẩn bị lực lượng yểm trợ chi viện trực tiếp từ các cứ điểm Ba Khe, động Hà Sống, Núi Lở, khi cần có thể điều đến 60 lượt máy bay/ngày từ Đà Nẵng lên viện trợ cho Thượng Đức. Nham hiểm hơn, địch cho dồn 13.000 dân các xã lân cận và thị trấn Hà Tân vào xung quanh căn cứ để dễ bề kìm kẹp và làm bia đỡ đạn cho chúng khi cần.
Trước âm mưu và thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, nhiệm vụ giải phóng và làm chủ Chi khu quận lỵ Thượng Đức ngày càng trở nên bức thiết, vừa có tính chiến dịch tại chỗ, vừa có tính chiến lược lâu dài. Tiêu diệt lực lượng địch ở đây là xóa bỏ một mắt xích phòng ngự vững chắc, phá toang “cánh cửa thép”, uy hiếp trực tiếp phía tây nam Đà Nẵng, giải phóng hơn một vạn dân và một vùng địa bàn rộng lớn, từng bước đánh bại kế hoạch “Bình định lấn chiếm” của địch. Cũng tại đây, hỏa lực tầm xa của ta có thể uy hiếp được sân bay Đà Nẵng và Sở chỉ huy Vùng I của chính quyền Sài Gòn, tạo một đòn tấn công mạnh và hiểm vào Đà Nẵng khi thời cơ chiến lược chín muồi.
Đầu tháng 6-1974, Sư đoàn 304 được tăng cường Trung đoàn 3, cùng với Sư đoàn 324 chính thức nhận nhiệm vụ: Phối hợp cùng với Quân khu 5 kết hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích cùng với sự nổi dậy của quần chúng tiêu diệt Chi khu quận lỵ Thượng Đức, giải phóng nhân dân. Chiến dịch mang biệt danh “K711” sau nhiều ngày đêm ròng rã, với sự giúp sức của nhân dân, quân ta bí mật vận chuyển vũ khí, lương thực áp sát mục tiêu. Có nhiều cách làm sáng tạo được phát huy trong vận chuyển vũ khí và chiến đấu. Khai thác lợi thế địa hình có sông, quân ta cho một số khẩu pháo nặng xuống thuyền, bè mảng xuôi về cứ điểm.
Đêm trước ngày nổ súng, bộ đội và dân công đẩy kéo pháo 85 ly vượt qua bãi lầy và hai dốc lên điểm cao 118 để ngắm bắn trực tiếp diệt lô cốt mẹ và cứ điểm tiền tiêu. Trong các đợt tấn công đầu, do quân địch còn rất mạnh, chống trả ác liệt, hỏa lực từ các lô cốt địch được chuẩn bị công phu, có sức công phá lớn, trong khi quân ta chưa nắm chắc địa hình, tổ chức bố trí binh hỏa lực chưa thật phù hợp... nên cuộc chiến diễn ra khá giằng co, cả quân số của ta và địch đều thương vong khá nhiều.
Sau khi họp bàn rút kinh nghiệm đề ra kế hoạch tác chiến mới, tổ chức lại lực lượng, ta chuyển từ chiến thuật đánh nhanh thắng ngay sang “bao vây đánh lấn”. Với sự giúp sức quên mình của nhân dân địa phương, ta có sáng kiến khai thác cây song mây loại lớn về làm dây chằng, ròng rọc, đốn cây rừng làm đòn khiêng. Đến nửa đêm 5-8-1974, các khẩu pháo đã nằm vào đúng vị trí như kế hoạch, sẵn sàng đợi lệnh để dội bão lửa xuống quân thù. Rạng sáng 7-8-1974, khi lớp sương mù dày đặc trên các sườn núi vừa tan, từ trên cao dùng ống nhòm có thể nhìn thấy rõ từng tên lính và công sự địch, thì các khẩu pháo bắn thẳng từ trên đồi nhả đạn tới tấp vào công sự cố thủ của chúng.
Sức công phá và sức nóng như thiêu đốt của đạn pháo gây nên nỗi kinh hoàng chưa từng có trong quân địch. Quân địch hoảng loạn, kéo chạy hàng loạt về phía đông, nhiều tên nhảy xuống nước. Hàng trăm tên rơi vào ổ phục kích của ta và bị bắt sống. Quận trưởng Nguyễn Quốc Hùng bị trúng đạn, biết không thể thoát nên đã tự sát tại chỗ. Thiếu tá, Tiểu đoàn trưởng 79 biệt động quân Hà Văn Lầu và quận phó Vũ Trung Tín bị bắt. Đến 8 giờ 15 phút sáng 7-8-1974 “cánh cửa thép” đã bị mở toang, căn cứ Thượng Đức hoàn toàn sụp đổ.
Lá cờ chiến thắng của quân ta đã tung bay trên nóc hầm công sự Thượng Đức. Sư đoàn 304 làm chủ hoàn toàn Chi khu quân sự Thượng Đức, tiêu diệt Tiểu đoàn biệt động quân 79, san bằng hệ thống cứ điểm kiên cố án ngữ phía tây nam thành phố Đà Nẵng. Không dừng lại ở đó, với khí thế phấn khởi của chiến thắng vang dội, quân ta gan dạ chiến đấu bảo vệ vững chắc vùng đất vừa giành lại được, đánh bại cả âm mưu phản kích điên cuồng của Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho máy bay A37 quần đảo ném bom hủy diệt hòng “tái chiếm Thượng Đức”, nhưng tất cả đều thất bại.
Từ chiến thắng Thượng Đức đến chiến dịch giải phóng Đà Nẵng và Cuộc tổng tấn công nổi dậy mùa Xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước mang lại nhiều giá trị và ý nghĩa lịch sử:
- Chiến thắng Thượng Đức như tiếp thêm sức mạnh cho ta tiến tới tiêu diệt các cứ điểm: Hòn Chiêng, Núi Gai, Động Mông, Lạc Sơn, Đá Hàm, ép địch lui về Cấm Dơi và quận lỵ Quế Sơn. Nhờ sự giúp sức mạnh mẽ của Sư đoàn 2, lực lượng vũ trang Quảng Nam, Quảng Đà tiêu diệt 70 cứ điểm, mở rộng vùng giải phóng ở huyện Điện Bàn, tây Tam Kỳ, Quế Sơn, bức hàng trung đội dân vệ Gò Đa, phá sập cầu Thủy Tú, Giao Thủy, Bà Bầu, bắn phá sân bay, đánh chìm tàu quân sự tại quân cảng Đà Nẵng, thành phố của thủ phủ miền Trung trong tình thế bị cô lập, uy hiếp.
Cũng từ thắng lợi quân sự này, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phát triển mạnh mẽ bằng 3 mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận), quần chúng liên tục tấn công địch buộc chúng rút khỏi nhiều thôn ở Phú Hương, Rừng Lớn (Quế Sơn), Vườn Cốc (Tam Kỳ)… phá vỡ nhiều khu dồn, vận động binh lính phản chiến… Phong trào đấu tranh cách mạng lên cao hơn lúc nào hết, phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
- Nói về chiến thắng Thượng Đức, Bí thư Khu ủy Khu V Võ Chí Công nhận xét: “Chiến thắng Thượng Đức không chỉ phá tan “cánh cửa thép” bảo vệ vòng ngoài Đà Nẵng, mà còn có ý nghĩa chiến lược quan trọng vào thời gian này. Từ thực tiễn đó góp phần cho Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương có những nhận định mới, đề ra những quyết sách đúng đắn và quyết định trong chiến lược Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân lịch sử năm 1975”.
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Trận Thượng Đức cho phép ta rút ra nhận định: Quân chủ lực cơ động của ta đã mạnh hơn chủ lực cơ động của địch. Một hình thái mới bắt đầu xuất hiện: Địch không còn khả năng chiếm lại các vị trí đã mất, quân ta có đủ khả năng tiến công tiêu diệt địch trong công sự kiên cố, tiêu diệt cụm cứ điểm, chi khu, quận lỵ, giữ được mục tiêu, chiếm đất, giải phóng dân ngay ở vùng giáp ranh”. Nhận định đầy sức thuyết phục này của Đại tướng liên quan rất lớn đến hạ quyết tâm chiến lược với những trận quyết chiến giành toàn thắng.
- Chiến thắng Thượng Đức cũng được nhắc đến trong Hội nghị Bộ Chính trị từ ngày 30-9-1974 đến 8-10-1974, như để khẳng định thêm thời cơ của cách mạng Việt Nam, là niềm cổ vũ lớn lao, có sức lay động mãnh liệt tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân và dân ta không chỉ ở Quảng Nam-Đà Nẵng mà còn trên nhiều chiến trường, không chỉ trên mặt trận quân sự mà cả trên đấu tranh chính trị và ngoại giao. Từ cột mốc quan trọng đó, Bộ Chính trị khẳng định đã đến thời điểm ra trận quyết chiến cuối cùng giành toàn thắng và chọn Tây Nguyên là chiến trường chính trong hoạt động mùa khô của toàn miền Nam.
Trung ương quyết định lấy Buôn Ma Thuật làm trận mở màn của chiến dịch nam Tây Nguyên vì đây là thủ phủ Tây Nguyên thuộc tỉnh Đắc Lắc nằm trên trục đường 14 và 21, thuận lợi cho việc phát triển chiến đấu của các tỉnh Tây Nguyên xuống duyên hải miền Trung và vào Nam Bộ, rộng đường cho giải phóng toàn miền Nam, thống nhất nước nhà như di nguyện tha thiết của Bác Hồ trước lúc ra đi và cũng là mong mỏi cháy bỏng của mỗi người dân Việt Nam, nhất là đồng bào miền Nam từng ngày từng giờ đang rên xiết dưới sự kìm kẹp của quân thù.
… Thấm thoắt thời gian đã 40 năm trôi qua! Khoảng thời gian chưa phải quá dài đối với đời người, lại càng ngắn so với bề dày lịch sử của một dân tộc gan góc dạn dày qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, khoảng thời gian đó cũng đủ cho chúng ta, những người đã đi qua kháng chiến và kể cả lớp thanh niên sinh ra và lớn lên trong hòa bình suy ngẫm nhìn lại, cúi đầu tri ân trước sự hy sinh cao cả của biết bao anh hùng liệt sĩ, thương binh, người có công cách mạng, trong đó có cả những chiến sĩ trận đánh Thượng Đức anh hùng. Trận đánh đã đi vào lịch sử của vùng đất Quảng Nam-Đà Nẵng trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ và của cả nước với vị trí là trận thắng bước ngoặt, tạo đà cho chiến dịch giải phóng Đà Nẵng tiến tới tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông thu về một mối.
Chúng ta kính cẩn nghiêng mình trước anh linh Tượng đài chiến thắng Thượng Đức hòa cùng hồn thiêng sông núi, sống mãi với dân tộc Việt Nam!
NGUYỄN VĂN CHI
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương,
nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng