.

Viêm khớp dạng thấp: Ðiều trị kiên trì!

.

Viêm khớp dạng thấp (VKDT) nếu không phát hiện và điều trị sớm có thể để lại một số biến chứng cho người bệnh. Việc điều trị phải thật kiên trì, không nóng vội.

Theo thống kê, lứa tuổi mắc bệnh viêm khớp dạng thấp có thể bắt đầu từ tuổi 30 trở đi và tỉ lệ mắc bệnh cao nhất là người cao tuổi, trong đó nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới. Nguyên nhân có thể do bệnh tự miễn hay di truyền.

Triệu chứng

Triệu chứng viêm và đau khớp, có khoảng 85% bắt đầu từ từ, tăng dần, 15% đột ngột với các dấu viêm cấp. Đa số biểu hiện bằng viêm một khớp, đó là một trong các khớp bàn tay, cổ tay, bàn ngón, khớp gối. Kéo dài từ vài tuần đến vài tháng rồi chuyển qua giai đoạn toàn phát gây viêm đau nhiều khớp.

Vị trí thường gặp sớm nhất ở cổ tay, bàn ngón, ngón gần nhất là ngón 2 và ngón 3, sau đó ở chi dưới là khớp gối, cổ chân, bàn - ngón, ngón chân và xuất hiện muộn là khớp khuỷu tay, khớp vai, khớp háng, đốt sống cổ, thái dương hàm. Tính chất sưng, đau có xu hướng lan ra 2 bên và đối xứng. Có thể có sốt nhẹ, da xanh, ăn kém, gầy, mât ngủ kéo dài.

Thông thường có ít nhất 3 khớp trong số các khớp này bị sưng và đau. Đặc trưng nhất là các khớp sưng, đau đối xứng nhau. Đau khớp nhiều vào ban đêm và sáng sớm lúc mới ngủ dậy hoặc đau lúc thời tiết chuyển mùa (từ nóng sang lạnh hoặc ngược lại). Bên cạnh đó, triệu chứng cứng khớp thường xuất hiện vào sáng sớm lúc vừa ngủ dậy.

Xét nghiệm sẽ thấy tốc độ máu lắng, tỉ lệ CRP (C- Reactive Protein) tăng cao, đặc biệt là có yếu tố dạng thấp RF (Rheumatoid Factor). Chụp X-quang thấy có hình ảnh biến đổi xương (mất vôi, hình dải hoặc xói mòn hoặc khuyết xương hoặc hẹp khe khớp hoặc dính khớp).

Biến chứng

Biến chứng của VKDT có thể là gây biến dạng khớp bị viêm, co quắp các ngón tay, hạn chế chức năng vận động, teo cơ và có thể bị tàn phế (khoảng từ 10 - 15%).

Cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh có triệu chứng hơi giống VKDT, đó là đau nhức xương hoặc mỏi cơ hoặc mỏi khớp, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp phản ứng, viêm khớp vẩy nến, lupus ban đỏ hệ thống, thoái hóa khớp.

Đây là triệu chứng của những bệnh thuộc về khớp nhưng yếu tố RF âm tính, viêm khớp không đối xứng ở một hoặc nhiều khớp. Ở người cao tuổi, bệnh rất dễ nhầm với bệnh thoái hóa khớp, bệnh gút.

Nguyên tắc điều trị và dự phòng

Khi nghi ngờ bị bệnh VKDT cần đi khám bác sĩ ngay, tốt nhất là khám bác sĩ chuyên khoa xương khớp và điều trị tích cực theo chỉ định của bác sĩ khám bệnh. Nguyên tắc điều trị là dùng thuốc giảm đau, chống viêm (Aspirin, corticoid, không steroid) và thuốc ức chế cox 2 (celebrex).

Nên điều trị kết hợp chặt chẽ giữa nội khoa, lý liệu pháp, phục hồi chức năng và trong trường hợp cần thiết, điều trị nội khoa không khỏi, có thể can thiệp bằng ngoại khoa. Người bệnh không nên tự chẩn đoán bệnh cho mình và tự mua thuốc điều trị.

Người bệnh không nên nghe theo lời khuyên hoặc mua thuốc của những người không có chuyên môn y học, bởi vì làm như vậy, bệnh không những không khỏi mà còn trầm trọng thêm và dễ gây biến chứng. VKDT là bệnh mạn tính kéo dài hàng chục năm, đòi hỏi quá trình điều trị phải kiên trì, liên tục có khi đến hết cả đời.

Không được tiêm bất cứ loại thuốc nào vào vùng đau của khớp khi chưa có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa khớp.

Người bệnh VKDT cần ăn, uống đủ chất, có chế độ sinh hoạt hợp lý và vận động cơ thể đều dặn nhằm tránh biến dạng khớp, cứng khớp, teo cơ. Mỗi buổi sáng lúc mới ngủ dậy nên xoa bóp cơ khớp, tốt nhất là dùng thêm một số dầu để thoa nhẹ lên vùng da của các khớp bị đau, cứng nhằm làm nóng da, giãn mạch máu để máu lưu thông tốt đến các cơ xương khớp, dây chằng (dầu gió, dầu khuynh diệp, Deefheat…). Thời gian xoa bóp tốt nhất từ 10 - 15 phút.

Hàng tháng nên đi khám bệnh theo định kỳ để bác sĩ theo dõi tình trạng sức khỏe của mình thuận lợi hơn.

Theo TS. BÙI MAI HƯƠNG/SK&ĐS

;
.
.
.
.
.