Bức xúc vì quy hoạch "treo" 12 năm

.

Giữa những tòa nhà khách sạn cao tầng ở ngay ngã ba đường Võ Nguyên Giáp - Võ Văn Kiệt, còn hơn 10 nhà dân chưa được giải tỏa (thuộc tổ 9, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà) do vướng quy hoạch “treo” 12 năm.

Khu vực dân cư chậm giải tỏa lọt thỏm giữa những tòa nhà khách sạn cao tầng.        Ảnh: HOÀNG HIỆP
Khu vực dân cư chậm giải tỏa lọt thỏm giữa những tòa nhà khách sạn cao tầng. Ảnh: HOÀNG HIỆP

Theo người dân ở tổ 9, phường Phước Mỹ, khu vực dân cư này thuộc quy hoạch lô đất A1-1, sau đó điều chỉnh tên thành lô A32 thuộc dự án nút giao thông đường Nguyễn Công Trứ và đường Sơn Trà - Điện Ngọc (nay là nút giao đường Võ Nguyên Giáp - Võ Văn Kiệt) và bị quy hoạch “treo” 12 năm nay.

“Trước đây, do phương án đền bù giải tỏa và bố trí tái định cư (TĐC) không phù hợp nên người dân không thống nhất, rồi các cơ quan chức năng cứ để quy hoạch “treo” kéo dài. Người dân kiến nghị không giải tỏa đền bù nữa nhưng không được, mà cũng không biết khi nào triển khai giải tỏa”, một người dân ở đây cho biết.

Trong khi đó, trao đổi với phóng viên Báo Đà Nẵng về tình hình thực hiện dự án này, ông Huỳnh Văn Hùng, Chánh Văn phòng HĐND và UBND quận Sơn Trà cho biết: “Khu vực dân cư này được quy hoạch từ lâu, nhưng do quá trình triển khai gặp vướng các thủ tục hành chính và việc thực hiện giải tỏa chưa rốt ráo, còn để “treo” kéo dài”.

Được biết, ngày 16-6-2005, UBND thành phố phê duyệt tổng mặt bằng quy hoạch nút giao thông đường Nguyễn Công Trứ và đường Sơn Trà - Điện Ngọc; trong đó, khu vực dân cư nói trên nằm trong phạm vi quy hoạch khu đất công cộng (ký hiệu A1-1 với diện tích 5.769m2).

Ngày 24-11-2010, UBND thành phố phê duyệt phương án bố trí TĐC đối với các hộ nằm trong diện giải tỏa khu đất A1-1 nói trên. Theo đó, hộ giải tỏa đi hẳn thuộc diện hộ chính ở vị trí mặt tiền đường Nguyễn Công Trứ trước đây có diện tích đất thu hồi từ 75m2 trở lên được bố trí 1 lô đất đường Nguyễn Văn Thoại thuộc khu TĐC phía đông xưởng 38 và 387.

Các hộ ở bên trong có diện tích thu hồi từ 100-600m2 được bố trí TĐC ở khu dân cư An Cư 2; hộ có diện tích thu hồi từ 30-100m2 được bố trí TĐC tại khu dân cư công trình công cộng A4 ở phường An Hải Bắc; các hộ thuộc diện thu hồi một phần, có diện tích đất thu hồi trên 75m2 và có nhu cầu đất TĐC sẽ được bố trí 1 lô đất phụ đường 5,5m tại khu TĐC đầu tuyến Sơn Trà - Điện Ngọc.

Tuy nhiên, sau nhiều năm triển khai giải tỏa gặp các vướng mắc, đến ngày 18-1-2013, từ tham mưu của Sở Xây dựng, UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 622/QĐ-UBND phê duyệt sơ đồ quy hoạch 21 điểm nhấn kiến trúc trên địa bàn thành phố. Trong đó, khu đất công cộng A1-1 nói trên được chuyển thành quy hoạch xây dựng cao tầng với quy mô từ 26-33 tầng. Tiếp đó, vào ngày 2-4-2014, UBND thành phố có Thông báo số 91/TB-VP về chủ trương của lãnh đạo thành phố là tạm ngưng thực hiện giải tỏa đền bù đối với khu vực dân cư này.

Được biết, trong phạm vi dự án có 18 hộ giải tỏa, trong đó có 12 hộ diện hộ chính và 6 hộ phụ với dự kiến vốn bổ sung để đền bù giải tỏa hoàn thành là 9,5 tỷ đồng. Tuy nhiên, do thiếu vốn nên còn để quy hoạch “treo” kéo dài.

Để nhân dân sớm ổn định cuộc sống và bảo đảm vệ sinh môi trường, mỹ quan đô thị, từ giữa năm 2015, Sở Xây dựng có công văn đề nghị UBND thành phố giao Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư xem xét bố trí kế hoạch vốn để triển khai giải tỏa đền bù; đồng thời, giao Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố phối hợp với các đơn vị lập các thủ tục đấu giá quyền sử dụng khu đất A1-1 thuộc dự án nút giao thông đường Nguyễn Công Trứ và đường Sơn Trà - Sơn Trà để làm thương mại du lịch.

Sau 11 năm quy hoạch “treo”, để có cơ sở triển khai thực hiện giải tỏa khu vực dân cư này, ngày 1-9-2016, UBND thành phố có Quyết định số 5938/QĐ-UBND phê duyệt điều chỉnh sơ đồ quy hoạch vị trí các điểm nhấn kiến trúc. Theo đó, khu đất nói trên được điều chỉnh ký hiệu là lô A32 với diện tích 0,58ha. “Hiện nay, các cơ quan chức năng đang làm thủ tục để trình, đề xuất thu hồi đất, giải tỏa di dời khu vực dân cư này”, ông Huỳnh Văn Hùng cho biết.

HOÀNG HIỆP

;
.
.
.
.
.