Làm rõ hành vi tham ô của Trịnh Xuân Thanh

.

● PVC không đủ năng lực làm tổng thầu EPC

Sáng 15-1, phiên tòa xét xử bị cáo Trịnh Xuân Thanh- nguyên Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty CP Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC) được tiếp tục với phần tranh tụng công khai.

Bị cáo Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm tại phiên tòa chiều 15-1.   					                   Ảnh: TTXVN
Bị cáo Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm tại phiên tòa chiều 15-1. Ảnh: TTXVN

Theo đại diện Viện Kiểm sát (VKS), ngay từ năm 2010, PVC đã khó khăn về nguồn vốn để nhận chuyển nhượng phần vốn góp của Tổng Công ty Tài chính CP dầu khí Việt Nam (PVFC) tại một số dự án.

Công văn số 3894/XLDK-TCKT ngày 9-9-2011 của PVC gửi Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) về việc báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của PVC 8 tháng đầu năm 2011 nêu: “... Các dự án PVC nhận chuyển nhượng từ PVFC đa số là các dự án bất động sản đang gặp rất nhiều khó khăn do thiếu vốn, dự án đình trệ, tiền bán hàng thu hồi chậm, ảnh hưởng lớn tới dòng tiền và tình hình sản xuất kinh doanh của PVC và các đơn vị thành viên. Do đó, để duy trì và triển khai các dự án này, PVC đã phải hỗ trợ vốn sản xuất kinh doanh và trả lãi khoản vay thay cho các đơn vị...”.

Tính đến thời điểm ký kết Hợp đồng EPC số 33 ngày 28-2-2011, hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của PVC các năm 2009 và 2010 đều < 1, không đáp ứng yêu cầu về năng lực tài chính. Đáng lưu ý, trong báo cáo PVN xin Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chỉ định PVC không nêu vấn đề này.

Ngày 24-2-2011, ông Đinh La Thăng đã ký và biết dự án đầu tư điều chỉnh chưa được lập, do thiết kế cơ sở là bước thiết kế đầu tiên làm cơ sở cho việc lập dự án đầu tư. Chỉ 4 ngày sau, ngày 28-2-2011, Tổng Công ty Điện lực dầu khí Việt Nam (PVPower) và PVC đã ký Hợp đồng EPC số 33. Thời điểm này chưa có dự án đầu tư được phê duyệt, chưa có thiết kế kỹ thuật, chưa có tổng dự toán, chưa có hồ sơ yêu cầu, hồ sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu theo quy định. Do đó, đại diện VKS khẳng định: Hợp đồng EPC số 33 có nhiều nội dung được điền trong hợp đồng nhưng không có thật.

Mối quan hệ mang tính “lợi ích nhóm”

Về năng lực kinh nghiệm, theo VKS, PVC không đáp ứng kinh nghiệm thực hiện hợp đồng tương tự của nhà thầu (được thực hiện với tư cách là nhà thầu chính hoặc nhà thầu phụ trong vòng 5 năm trở lại). Chính bị cáo Đinh La Thăng và bị cáo Trịnh Xuân Thanh tại phiên tòa thừa nhận PVC không đủ năng lực thực hiện EPC Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình II.

Đại diện VKS chỉ ra hệ lụy từ việc không có năng lực tổng thầu là rất lớn, đó là việc dự án thi công kéo dài gấp đôi, nếu phạt hợp đồng EPC sẽ lên tới hàng trăm triệu USD, bản thân PVC cũng chịu chi phí phát sinh rất lớn (theo Báo cáo 117 ngày 6-1-2017, PVC chi phí phát sinh tới 155 tỷ đồng/năm).
Trên cơ sở những phân tích trên, công tố viên khẳng định do PVC không đủ năng lực thực hiện dự án nên không thể ưu tiên PVC làm tổng thầu để thực hiện chủ trương “Ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội Đào Thịnh Cường trình bày quan điểm tại phiên tòa.                      Ảnh: TTXVN
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội Đào Thịnh Cường trình bày quan điểm tại phiên tòa. Ảnh: TTXVN

Theo đại diện VKS, mặc dù biết rõ PVC đang gặp khó khăn về tài chính, không đủ năng lực cũng như kinh nghiệm thực hiện thi công dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2, để tạo điều kiện cho PVC, ông Đinh La Thăng vẫn ưu ái bỏ qua các quy định của pháp luật để chỉ định PVC làm tổng thầu, sau đó chỉ đạo các bị cáo tại PVN và các đối tượng liên quan tại PVPower ký hợp đồng EPC, tạm ứng tiền cho PVC để bị cáo Thanh và các đồng phạm sử dụng trái mục đích, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, qua đó cho thấy rõ mối quan hệ mang tính lợi ích nhóm của các bị cáo.

Vai trò của Trịnh Xuân Thanh bao trùm PVC

Chiều 15-1, trên cơ sở diễn biến thực tế tại phần thẩm vấn và tranh luận tại tòa, VKS đưa ra các cơ sở buộc tội, phân tích chứng cứ lời khai và chứng cứ vật chất, qua đó kết luận có căn cứ xác định bị cáo Trịnh Xuân Thanh phạm tội “Tham ô tài sản”. Đại diện VKS cho biết, 9/10 bị cáo trong nhóm tội “Tham ô tài sản” đã nhận tội, thừa nhận việc bị truy tố về tội tham ô tài sản là có căn cứ, đúng pháp luật. Chỉ riêng bị cáo Trịnh Xuân Thanh không nhận tội. Một số luật sư bào chữa cho Trịnh Xuân Thanh và bản thân bị cáo Trịnh Xuân Thanh cũng cho rằng bị cáo Trịnh Xuân Thanh không phạm tội tham ô tài sản, có chăng chỉ là hành vi thiếu trách nhiệm, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu.

VKS khẳng định, liên quan đến hợp đồng 33, vai trò của bị cáo Trịnh Xuân Thanh bao trùm PVC. “Xuyên suốt ký hợp đồng, sử dụng tiền tạm ứng bao trùm lên tất cả là vai trò của bị cáo Trịnh Xuân Thanh khi đó đang là Chủ tịch HĐQT PVC”, đại diện VKS nhấn mạnh.

Đối với hành vi cố ý làm trái của bị cáo Trịnh Xuân Thanh, VKS trích lời khai của chính bị cáo trong quá trình điều tra: “Bản thân tôi cũng như các thành viên khác, Vũ Đức Thuận... đều nắm được hồ sơ đề xuất của Tổng thầu để ký hồ sơ là chưa đủ căn cứ pháp lý”.

Lời khai của bị cáo Vũ Đức Thuận cũng thể hiện: “Việc ký hợp đồng 33 là thực hiện theo chỉ đạo của Trịnh Xuân Thanh, lúc đó PVC đang khó khăn về tài chính”.

Còn bị cáo Nguyễn Ngọc Quý, nguyên Phó Chủ tịch HĐQT PVC khai: “Thời điểm đó, PVC rất cần các khoản vốn. Vì vậy, anh Thanh và anh Thuận nhanh chóng chỉ đạo ký hợp đồng 33 ngay khi chưa đủ căn cứ pháp lý”.

Bên cạnh đó, VKS cũng làm rõ việc chỉ đạo sử dụng tiền sai mục đích của các bị cáo tại PVC mà người có vai trò chính là bị cáo Trịnh Xuân Thanh.

B.T

;
.
.
.
.
.
.