.

Lâm Tỳ Ni, nơi sinh Đức Phật

.

Trong chuyến hành hương trên đất Phật chúng tôi đã đến ba vùng đất quan trọng liên quan đến cuộc đời Đức Phật nằm trên đất Ấn Độ.

Đó là Boddhgaya, nơi Đức Phật sau bao thăng trầm trong cuộc tìm kiếm chân lý đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Đề và được khai minh;  Là thánh tích Sarnath, nơi giảng bài kinh đầu tiên cho năm tín đồ đầu tiên của Phật giáo; Là thánh địa Kushinagar, nơi Đức Phật lui về nghỉ những ngày cuối cùng nhập Niết Bàn ở tuổi tám mươi. Địa danh thứ tư mà chúng tôi được đặt chân đến nằm trên đất Nepal, là Lumbini (Lâm Tỳ Ni), vùng đất thiêng xanh tươi trải dài dưới rặng núi Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ, nơi Đức Phật sinh ra vào khoảng năm 624 trước công nguyên.

Chùa Việt Nam Phật quốc tự ở Lâm Tỳ Ni. Ảnh: N.N.P
Chùa Việt Nam Phật quốc tự ở Lâm Tỳ Ni. Ảnh: N.N.P

Chúng tôi xuất phát từ chùa Việt Nam Phật quốc tự ở Bồ Đề Đạo Tràng (Ấn Độ) lúc 3 giờ sáng. Cùng đi với 4 nhà văn Việt Nam, ngoài chú Avin - người của nhà chùa do thầy Nhuận Đạt giao cho dẫn đường còn có cậu con trai của tài xế trạc tuổi Avin.

Đến biên giới Ấn Độ - Nepal lúc gần cuối chiều, khi nhìn thấy hộ chiếu Việt Nam của đoàn, những cán bộ hải quan kêu lên vui vẻ “Doctor Lam – Doctor Lam (tiến sĩ Lâm) - tên gọi thân mật Thượng tọa Thích Huyền Diệu, người  trụ trì cả 2 chùa cùng mang tên Việt Nam Phật quốc tự ở Ấn Độ và ở Nepal.

Thì ra tên thật của thầy Huyền Diệu là Lâm Trung Quốc. Avin giải thích bằng tiếng Anh – Nhà thơ Trần Quang Quý dịch lại cho đoàn nghe. Thầy bảo rằng: “Trung Quốc là trung với nước. Có Tổ quốc rồi mới có Phật giáo. Ngay tên chùa, thầy đặt Việt Nam Phật quốc tự. Tổ quốc Việt Nam trước rồi mới là Phật giáo rồi mới chùa”.

Đoạn đường từ biên giới vào Lâm Tỳ Ni rất xấu. Chạy ngược chiều với xe chúng tôi là những chiếc xe buýt có tiếng còi rất lạ nghe cứ ngân nga như tiếng kèn đồng ngáy ngủ. Càng gần đến Lâm Tỳ Ni chúng tôi gặp nhiều đoàn nhà sư, đặc biệt là các nhà sư Tây Tạng. Khu vực ở đây còn gọi là Vườn thiêng là nơi tập trung có rất nhiều chùa của các nước.

Dưới ánh trăng mờ sương, tôi nhận thấy hai bên đường rất nhiều hồ nước và lau lách um tùm, nghe có cả tiếng dế kêu rả rích và mơ hồ vọng xa là tiếng chó sói hú gọi đàn, giống như trôi giữa một cánh rừng hoang dã nào đó của châu Phi. Chúng tôi đến chùa đã có người đón ở cổng chùa và đưa đi nghỉ ở dãy nhà mới xây xong giống như một khách sạn nhỏ ba tầng, gọn gàng, sạch sẽ. Mỗi người ở một phòng có bóng điện chạy bằng ắc-quy. Khoảng 4 giờ sáng tôi được trưởng đoàn đánh thức chuẩn bị đi bộ sang thánh địa nơi Đức Phật sinh ra cách chùa khoảng một cây số. Trời rét. Trông mờ mờ hơi sương tôi nhận ra có nhiều đoàn hành hương cũng ra đây vào giờ này.

Ấn tượng nhất với tôi là trụ đá vua A Dục. Vào năm 250 trước công nguyên, hoàng đế A Dục (Asoka) trong chuyến du hành cùng đoàn tùy tùng đến nơi đây và cho dựng một trụ cột để ghi dấu chuyến viếng thăm của mình. Nguyên văn dòng chữ hoàng đế A Dục viết trên cột đá được dịch ra như sau: “Hai mươi lăm năm sau khi lên ngôi, quốc vương Asoka đến viếng thăm nơi ra đời của Đức Phật, vị hiền triết của bộ tộc Thích Ca. Hoàng đế truyền lệnh tạc một pho tượng bằng đá và dựng lên một thanh trụ. Ngài miễn thuế đất ở Lum Bi Ni và giảm thuế hoa màu từ 1/4 theo lệ thường xuống 1/8”. Đây là một văn bản rõ ràng, chu đáo và chính xác, bày tỏ lòng biết ơn đối với mảnh đất mang đến cho nhân loại một vĩ nhân. Asoka là người nhìn xa trông rộng. Ngài biết ký ức lịch sử là cái không bền vững sẽ có ngày người đời quên lãng và sinh ra nghi vấn. Hoàng đế bèn đến tất cả thánh địa có dấu chân Phật trên đất Ấn Độ cổ đại, đến đâu ngài cũng cho khắc những chỉ dụ lên đá, dựng lên ở đó những trụ đá có khắc thông báo và mệnh lệnh của hoàng đế viết bằng ký tự Brahmi.  

Thầy Huyền Diệu dẫn chúng tôi treo tràng hoa nhỏ lên hàng rào sắt trước cột đá thiêng, cúi đầu chắp tay lễ và dẫn đoàn đi 7 vòng xung quanh cột đá. Bảy vòng, người đi với người là thành quen biết. Người đi quanh vật bảy vòng là hình thành tin cậy, tôn kính. Thầy nói: “Phật tử khắp nơi trên thế giới mãi mãi biết ơn trụ đá này. Vì sao ư? Chính là bởi vì từ thế kỷ 19 trở về trước, dưới khoa học vẫn tin rằng Đức Phật tổ là nhân vật huyền thoại do người đời thêu dệt mà có. Mãi đến khi khai quật được cột đá này vào năm 1896 nhân loại mới biết rằng Đức Phật là nhân vật lịch sử, là người có thật, có sinh, có tử”.   

Ở thánh địa Lâm Tỳ Ni, nơi Đức Phật sinh ra có những vườn cây vô ưu hoa nở trắng, những cây bồ đề cổ thụ tỏa bóng. Dưới gốc cây, những bầy sóc quẩn quanh nhởn nhơ phơi nắng. Đặc biệt ở đây, còn có đền thờ hoàng hậu Maya được xây dựng khoảng thế kỷ thứ ba trước công nguyên, bên trong có phiến đá khắc họa sự tích Phật đản sinh. Một di tích quan trọng khác còn giữ lại được nơi đây là hồ Pushhkarni hình chữ nhật kè gạch đá, nơi hoàng hậu tắm trước khi lâm bồn mà cũng là nơi hoàng tử Tất Đạt Đa được tắm lần đầu tiên sau khi sinh ra.

Hơn 20 thế kỷ trôi qua, hồ nước vẫn xanh thắm, vẫn trong veo, vẫn cội nguồn. Ở đây còn có một bức phù điêu kể chuyện hoàng hậu sinh nở. Tay phải bà giơ lên cao quá đầu níu một cành vô ưu. Bà đã sinh ra Đức Phật trong tư thế đứng như vậy, như tập quán thời Ấn Độ cổ đại.

Khuôn viên chùa Việt Nam Phật quốc tự ở Nepal rất đẹp. Phía trước chùa là cái ao thơm ngát hoa sen có cây cầu cong vắt qua. Đặc biệt chỉ ở chùa Việt Nam mới có những đôi chim hồng hạc đang đủng đỉnh đi trong sân chùa trầm mặc như các triết gia. Đây là loại chim cực kỳ quý hiếm đứng thẳng có thể cao khoảng 2m, nặng trên dưới 9kg nhưng lại vô cùng uyển chuyển, duyên dáng đứng soi bóng bên ao cạnh những khóm trúc vàng.

Thầy Huyền Diệu là người phát hiện ra hồng hạc và nuôi ở ngay trong khuôn viên chùa. Kể từ ngày chim hồng hạc xuất hiện ở Lâm Tỳ Ni, thầy Huyền Diệu phân công người canh giữ và bảo vệ chim. Thầy bảo: “Khác với loài người, thông thường phụ nữ xinh đẹp hơn đàn ông, ngược lại con hạc trống trông lại sặc sỡ với dáng rất oai vệ hơn con mái, lông chim hạc trắng mượt mà hơn, và vòng đỏ điểm xuyết ở cổ cũng lớn hơn”. Chỉ cần nghe tiếng kêu thầy có thể đoán ngay được tâm trạng của chim. Lúc vui, tiếng kêu trong trẻo, lúc buồn kêu nghe ảo não. Khi vui chúng xòe cánh múa hát, lúc buồn gục đầu vào cánh thổn thức.

Buổi chiều hôm đó, chúng tôi nhập vào đoàn phật tử vừa ở bên nước sang, được thầy Huyền Diệu dẫn đi tham quan khu Vườn thiêng mà mọi người gọi là “Liên hiệp quốc Phật giáo”. Ở đây có trên 20 quốc gia dựng chùa. Mỗi ngôi chùa mang một nét kiến trúc đặc trưng của nước đó. Chùa Thái Lan với những mái cong xếp chồng lên nhau. Chùa Campuchia đậm chất kiến trúc Angkor Wat, chùa Nepal bầu bĩnh với con mắt Phật xuyên thấu, Chùa Myanmar dát vàng phía dưới hình tròn càng lên cao càng nhọn. Chùa Trung Quốc có tượng Phật lớn đồ sộ nhìn bên ngoài giống như Thiếu Lâm Tự, rồi chùa Pháp, chùa Tây Tạng, chùa Butan, chùa Miến Điện, chùa Nhật Bản…

Thầy Huyền Diệu kể rằng, ngày mới đến đây xây chùa, thầy cùng mấy chục người thợ phát quang vùng đất hoang. Rắn độc to bằng bắp chân túa ra. Đêm đêm nghe tiếng chó sói hú ghê rợn. Còn có cả những đàn voi đi đổ rạp cả cây. Đêm dựng lều đốt lửa ngủ giữa trời. Có đêm rừng động, đột nhiên tiếng muông thú rầm rập mỗi lúc một gần. Thầy vùng dậy gọi thợ đốt nhiều đống lửa to rồi đồng thanh hét thật lớn – bất ngờ đàn thú rừng chuyển hướng. Chùa Việt Nam được xây đầu tiên, sau đó chùa các nước về đây xây tiếp.

Không chỉ xây chùa, thầy còn đứng ra quyên tiền để xây cho dân địa phương một chiếc cầu. Bởi mùa mưa lũ, dân liều mạng sang sông đi làm ăn thường bị cuốn trôi. Nhiều lúc thầy tự hỏi vì sao Đức Phật chọn cái xứ này mình sinh ra rồi thành đạo. Nếu lấy biên giới Ấn Độ - Nepal là mốc thì sang Lâm Tỳ Ni (Nepal) đi về phía trước 20km thì đến nơi Phật sinh. Về Ấn Dộ đi ngược về sau gần 100km là Kushinagar nơi Phật qua đời. Cả hai vùng đất này mọi thứ đều thái quá. Thiên nhiên khắc nghiệt, con người cay nghiệt lầm than. Thầy Huyền Diệu đưa ra một nhận xét khá tinh tế bằng trải nghiệm sống của mình: “Nơi nào nhiều bậc thánh nơi ấy cũng nhiều quỷ ma”.

Đoàn chúng tôi ở Lâm Tỳ Ni một ngày, tôi cứ ngỡ như đang sống ở quê nhà khi gặp một họa sĩ từ Cần Thơ tình nguyện sang đây có cái tên “Hai lúa” bình dị. Họa sĩ người gầy, da ngăm đen đã vẽ rất nhiều tranh bột nước đồng quê thôn Việt. Có lẽ trong tâm thức của người họa sĩ này: “Quê hương nếu ai không nhớ - sẽ không lớn nổi thành người”. Ông sang đây chỉ vẽ tranh của hồn quê Việt.  Khi có các đoàn khách trong nước đến, ông cho bày tranh triển lãm trong vườn chùa. Ông có rất nhiều tranh vẽ về hoa Sen. Sen ở trong đầm ao. Sen nở trên cánh đồng ngập nước mông mênh Đồng Tháp Mười. Họa sĩ xin mỗi nhà thơ chép vào cuốn sổ một câu thơ của mình tâm đắc. Tôi đã chép vào sổ tay của ông hai câu thơ trong bài thơ “Hồn quê”: “Bánh đa cong, mái nhà lá cũng cong - con đường cát, giấc mơ đêm cũng cát”. Bởi tự nhiên tôi lại nhớ quê - cái làng quê biển Kim Đôi bé nhỏ miền Trung từng hứng chịu bao cơn bão khắc nghiệt của thiên nhiên đổ vào…

Cuối tháng 7-2013, tại buổi đón tiếp Thượng tọa Thích Huyền Diệu tại Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam cho biết, đã có hơn 40 nhà văn Việt Nam hành hương về đất Phật, được đến với những ngôi chùa Việt  mà thầy Huyền Diệu đã dày công xây dựng, được đón nhận những tình cảm và sự quan tâm nồng hậu của thầy. Xa đất nước đã hơn 50 năm, nhưng như thầy bày tỏ: “Không bao giờ tôi quên đất nước và luôn tâm nguyện rằng, trước khi nhắm mắt phải làm một điều gì đó để cảm ơn đất nước, nơi sinh ra mình, đất nước mình đã từng uống nước và gắn bó nhiều năm…”.

NGUYỄN NGỌC PHÚ

;
.
.
.
.
.