.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp với đất và người Quảng Nam-Đà Nẵng

.

(Đà Nẵng Xuân 2011) - Giữa những năm 20, Võ Nguyên Giáp- một thanh niên yêu nước từ Quảng Bình vào Huế học, mau chóng gặp gỡ kết thân với những thanh niên học sinh cũng đầy nhiệt huyết yêu nước từ Quảng Nam ra.

Mô tả ảnh.
Nụ cười chiến thắng (Đà Nẵng, 1975)  

Theo các hồi ký và những thông tin đã công bố, Võ Nguyên Giáp đến với Quảng Nam rất sớm, lần đầu vào năm 1927.

Giữa những năm 20, Võ Nguyên Giáp - một thanh niên yêu nước từ Quảng Bình vào Huế học, mau chóng gặp gỡ kết thân với những thanh niên học sinh cũng đầy nhiệt huyết yêu nước từ Quảng Nam ra.

Phan Bôi lúc này cùng học Quốc học trên Võ Nguyên Giáp một lớp và ở Nhà hội (một dạng ký túc xá tự quản của những học trò xứ Quảng ở Huế do nhiều nhân sĩ trí thức gây dựng. Ở đây học trò tiết kiệm được chi phí ăn ở. Đây cũng chính là nơi tập hợp những người trẻ tuổi có chí hướng cứu nước).

Võ Nguyên Giáp rất thân với Phan Bôi, thường đến Nhà hội và cùng với Nguyễn Chí Diễu, Hải Triều, Phan Bôi đến thăm Phan Bội Châu, nghe ông già Bến Ngự nói chuyện.

Năm 1925-1926, học sinh ở Huế sôi nổi tham gia phong trào biểu tình đòi ân xá Phan Bội Châu, tổ chức truy điệu Phan Châu Trinh. Nguyễn Chí Diễu, bạn thân nhất của Võ Nguyên Giáp bị nghi là lãnh đạo phong trào. Mật thám Pháp bày trò vu khống Nguyễn Chí Diễu “chép bài của người khác”, Nguyễn Chí Diễu bị đuổi học.

Võ Nguyên Giáp, Phan Bôi cùng một số người vận động bãi khóa phản đối việc đuổi Nguyễn Chí Diễu. Võ Nguyên Giáp, Phan Bôi lại bị đuổi học.

Trong tình hình đó, Võ Nguyên Giáp vào Quảng Nam-Đà Nẵng, ông gặp Lê Văn Hiến, rồi lên Trà Kiệu, Thu Bồn, về Bảo An gặp Phan Bôi.

Cái duyên của Võ Nguyên Giáp với đất và người Quảng Nam-Đà Nẵng ban đầu là như vậy.

Trên con đường cách mạng, cuộc đời Võ Nguyên Giáp còn gắn bó với số phận nhiều người con ưu tú của đất Quảng.

Sau khi bị đuổi học, Võ Nguyên Giáp vẫn trụ lại Huế. Ông được cụ Huỳnh Thúc Kháng bảo lãnh và thâu nhận làm biên tập báo Tiếng Dân.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng hơn Võ Nguyên Giáp tới ba giáp (35 tuổi), nhưng cụ rất quý trọng người cộng sự trẻ tuổi thông minh, yêu nước này.

Trong hoàn cảnh lúc đó, vì nhiều lý do, trên báo Tiếng Dân (và qua các hoạt động khác), cụ Huỳnh bộc lộ nhiều nhận thức, quan điểm có thể nói là thiếu chuẩn xác, có lúc trực tiếp bài xích chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội. Chính cụ đã nói với Võ Nguyên Giáp “Cậu là một thanh niên thông minh, yêu nước nhưng các cậu chưa từng trải cho nên chưa hiểu rằng chủ nghĩa Bôn-sê-vích không hợp với nước ta”.

Nhiều văn kiện chính thức Đảng ta đã phê phán thẳng thừng các nhận thức, quan điểm ấy. Tất nhiên lúc này tư tưởng chính thống trong Đảng có chịu ảnh hưởng của khuynh hướng tả khuynh. 

Mô tả ảnh.
Tổng Bí thư Lê Duẩn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Hồ Nghinh. (Ảnh tư liệu)

Theo nhiều nhà nghiên cứu, trên thực tế từ Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản (1928), khuynh hướng tả khuynh đã nảy sinh trong phong trào Cộng sản quốc tế. Thời ấy, đường lối lãnh đạo cách mạng ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa đã nhấn mạnh quá mức vấn đề đấu tranh giai cấp, đồng thời phê phán một cách miệt thị các tầng lớp trung gian. Ở Việt Nam, trong cao trào cách mạng 1930-1931, ai nói đến chuyện dân tộc, chuyện đồng bào mà không nói đến chuyện giai cấp, chống bóc lột thì bị coi như phần tử cơ hội hữu khuynh.

Chính Bác Hồ những năm đầu 30 cũng từng bị nhận xét là mang tàn dư của hệ tư tưởng dân tộc chủ nghĩa pha lẫn chủ nghĩa cải lương và chủ nghĩa duy tâm. (Xem Nguyễn Ái Quốc trên đường về nước. NXB Chính trị quốc gia và NXB Nghệ An).

Ở đây không chỉ là vấn đề tả khuynh trong phê phán quan điểm tư tưởng mà còn thể hiện những sai phạm về chính trị. Khi nhập cục Huỳnh Thúc Kháng - một người yêu nước chân chính, một nhân cách cao thượng - như Bác Hồ đã khẳng định - với nhóm Bùi Quang Chiêu, Phạm Quỳnh và cho rằng “Tư bản bản xứ chia làm hai bộ phận, một bộ phận đã hiệp tác với đế quốc chủ nghĩa, một bộ phận nữa (bọn Huỳnh Thúc Kháng, bọn Phạm Quỳnh, bọn Ngọ báo) hiện còn thỏa hiệp với đế quốc, chúng nó lợi dụng phong trào cách mạng để yêu cầu đế quốc những quyền lợi riêng của chúng nó. Ngoài mặt chúng nó ra bộ đòi những cải cách, nhưng kỳ thiệt chúng nó kiếm cách phá hoại phong trào cách mạng của công nông. Chiến lược của Đảng ta là phải chỉ rõ tính chất quốc gia cải lương của bọn này”. (Văn kiện Đảng tập 1)

Với tầm nhìn của mình và từ những trải nghiệm thực tiễn qua nhiều năm là cộng sự của cụ Huỳnh, Võ Nguyên Giáp vượt ra khỏi khuynh hướng tả khuynh đó, Võ Nguyên Giáp đánh giá cao Cụ Huỳnh, xuất phát từ lòng yêu nước chân chính nên dù có nhận thức và quan điểm về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản khác với Đảng, vẫn hết lòng giúp những người cộng sản hoạt động. Ông tôn trọng nhân cách cao thượng của cụ và khẳng định chính kiến của cụ là một cái riêng.

Có một sự gắn bó kỳ lạ giữa hai anh em ruột, hai người con ưu tú của đất Quảng Phan Thanh, Phan Bôi với Võ Nguyên Giáp.

Có lẽ do tình bạn thân thiết giữa Võ Nguyên Giáp và Phan Bôi để lại những ấn tượng đẹp, nên khi ra Hà Nội dấn thân và lập nghiệp, Võ Nguyên Giáp luôn luôn gần gũi sát cánh với Phan Thanh (và vợ ông, bà Lê Thị Xuyến).

Phan Thanh chỉ hơn Võ Nguyên Giáp có ba tuổi. Nhưng nhân cách, tài năng và đức độ có sức hấp dẫn đặc biệt với Võ Nguyên Giáp. Gần như những hoạt động chính của Phan Thanh đều có Võ Nguyên Giáp đứng bên cạnh. Phan Thanh mở trường tư thục Thăng Long để mưu sinh và có môi trường liên kết vận động trí thức thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, một việc lớn được khởi xướng từ thời phong trào Duy Tân ở đất Quảng vẫn đang lôi cuốn những thế hệ tiếp nối. Ở trường này, Võ Nguyên Giáp dạy văn - sử - địa, Phan Thanh dạy Pháp văn, cả hai đều dạy rất giỏi.

Võ Nguyên Giáp truyền đạt những khái niệm về cách mạng, về dân tộc, dân chủ, về nhân quyền, khơi dậy trong học sinh những lý tưởng cao đẹp, lòng háo hức hoạt động chính trị, kích thích tinh thần yêu nước. “Thầy Giáp đã đưa học sinh đến cửa Bắc trước vết đạn pháo của Pháp bắn vào thành Hà Nội, đến Ô Cầu Giấy xem nơi Francis Garnier, Henri Rivière tử trận, ngay tại hiện trường thầy đã  kể về diễn biến trận đánh cho học sinh nghe”.

Khi Đảng giao cho Phan Thanh nhiệm vụ thành lập Hội truyền bá quốc ngữ, ông được cử làm Tổng Thư ký Trưởng ban cổ động, thì Võ Nguyên Giáp là Trưởng ban dạy học. Đây là một phong trào vận động văn hóa sâu rộng sôi nổi chưa từng có do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đặt cơ sở cho việc xóa nạn mù chữ trên cả nước ta sau này.

Đây cũng đồng thời là một cuộc vận động chính trị-yêu nước công khai, hợp pháp, thích hợp với nhiều người, lôi cuốn và tập hợp được nhiều người.

Trong thời kỳ này, thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, Đảng chủ trương ra báo công khai ở cả ba kỳ, bằng chữ  quốc ngữ và chữ Pháp, xem báo chí là mặt trận quan trọng, Phan Thanh cùng với Phan Bôi và Võ Nguyên Giáp là những hạt nhân tích cực của hoạt động quan trọng này.

Phan Thanh viết báo rất sớm, bài báo đầu tiên ông viết năm 1926 - năm ông 18 tuổi. Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ ông tham gia viết cho các tờ Le Travail, Rassamblement, En Avant, Demain, Notre Voix… Thời thế, Tin tức, Đời nay - những tờ báo tiến bộ của  Đảng. Tham gia ba cơ quan dân cử cấp cao trong thời kỳ thực dân cai trị, Phan Thanh càng có điều kiện hoạt động báo chí.

Võ Nguyên Giáp cũng là một cây bút nổi tiếng trên các tờ báo ấy. Nhiều người kể lại có khi để hoàn thành một số báo mà Võ Nguyên Giáp bao trọn mọi bài vở, tin tức, ông làm việc 24/24 giờ. Thật kinh khủng.

Phan Bôi từ Côn Đảo trở về, có một thời gian ngắn hoạt động ở Đà Nẵng, Quảng Nam quê nhà. Sau đó, ông ra Hà Nội, ở nhà anh ruột là Phan Thanh và tham gia các hoạt động đấu tranh công khai hợp pháp của Đảng trong thời kỳ này.

Lúc này đồng chí Trường Chinh là Trưởng ban báo chí, Phan Bôi là cố vấn kiêm Chánh văn phòng. Trước Đảng, Phan Bôi là người trực tiếp phụ trách điều hành các tờ báo của Đảng lo đủ mọi việc viết bài, chọn bài để đăng báo, tiếp khách và các độc giả. Chính quyền Pháp luôn tìm cách kiểm duyệt quấy rối, bỏ bài này sửa bài khác nhưng chúng cấm tờ này ta cho ra tờ khác.

Phan Bôi bắt đầu làm báo khi nào và vì sao sớm trở thành một nhà báo cự phách (viết báo bằng hai thứ chữ Việt, Pháp).

Chúng ta chỉ được biết đầu những năm 30 ông vào Sài Gòn hoạt động cách mạng trong một tổ chức với Trần Văn Giàu và Hải Triều. Nhóm này cho ra hai tờ báo in bằng xu xoa (thạch) (Trần Văn Giàu phụ trách tờ Tân học sinh, tờ Giải phóng do Phan Bôi). Trần Văn Giàu, một người từng du học Paris và hoạt động cách mạng bị trục xuất, nổi tiếng là học giỏi và hùng biện đã có nhận xét như sau: “Không rõ anh Phan Bôi học tiếng Tây tới đâu, nhưng anh giỏi lắm, mà đặc biệt là giỏi nói, nói giỏi, rất đúng tiếng Tây, mà tiếng Việt nói cũng hay, cũng giỏi lắm, giảng bài hay, phát biểu thì rành rõi lắm”.

Qua nhận xét này chúng ta không rõ về năng lực làm báo của Phan Bôi nhưng có thể thấy đó là một người có năng lực tư duy siêu việt, cực kỳ thông minh, đây là cái gốc của tài năng báo chí.

Người xưa có nói đến hiện tượng liên tài. Những người cùng chí hướng, tài năng xuất chúng luôn luôn tôn trọng tài năng của nhau, và đánh giá rất đúng tài năng ấy của bạn mình. Võ Nguyên Giáp là người thấy hết, thấy đúng tài năng của Phan Thanh, Phan Bôi.

Chính vì thế, ông đã có một nhận định rất khái quát mà rất tinh anh về Phan Thanh: “Ở tuổi 30 mà anh Phan Thanh đã xuất hiện trong làng báo như một cây bút lành nghề và lão luyện; trên nghị trường như một chính khách sắc sảo và hùng biện, trên bục giảng ở nhà trường như một ông thầy chững chạc và mực thước”. Và theo Võ Nguyên Giáp hồi đó người ta quen gọi Phan Thanh là một chiến sĩ xã hội vì anh là người hoạt động xã hội sôi nổi, cũng đã từng có quan hệ với Đảng Xã hội Pháp ở Việt Nam và đúng là Phan Thanh chưa từng được kết nạp vào Đảng Cộng sản.

Võ Nguyên Giáp cũng xúc động kể lại chuyện người bạn đời của ông Nguyễn Thị Minh Thái (em gái đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai), lúc ấy đã trao cho thân nhân Phan Thanh một huy hiệu búa liềm để đặt nơi trái tim Phan Thanh lúc anh đã qua đời và khẳng định “Đối với những người cộng sản chúng tôi thì từ đây Phan Thanh đã thực thụ là một người cộng sản”. Với Phan Bôi, ông nhiều lần nói Phan Bôi là người bạn ruột thịt của mình.

Những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt, lâu lâu Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Đà nhận được một “bưu kiện” chuyển tới bằng đường giao liên, giấy gói, dây buộc đã sờn rách, đứt lỏng. Đó là những cuốn sách của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi cho đồng chí Hồ Nghinh, Bí thư Tỉnh ủy.

Dù không phải là quà của chúng tôi, nhưng được nhìn thấy những cuốn sách đến từ hậu phương lớn, có lời đề tặng và chữ ký quen thuộc của Đại tướng, chúng tôi cũng phấn khởi, tự hào.

Chúng tôi biết đồng chí Bí thư yêu kính của mình, người Chính ủy của Mặt trận Quảng Đà hôm nay và vị Tổng Tư lệnh cuộc chiến từng là bạn học ở Trường Quốc học.

Trong cuốn sách Hồ Nghinh, một chiến sĩ, một con người có một bức ảnh Tướng Giáp và đồng chí Hồ Nghinh, cả hai đã ngoài thất thập, nhưng đều còn tươi trẻ, tinh anh có chú thích: Nụ cười hai người bạn thời Quốc học Huế (1925-1926) gặp nhau sau năm 1975 tại Đà Nẵng.


Những năm sau ngày toàn thắng, Đại tướng có nhiều lần đến với Quảng Nam-Đà Nẵng và để lại trong chúng tôi những kỷ niệm đẹp đẽ…

Lâu nay, nghĩ về Võ Nguyên Giáp - hình ảnh một võ tướng “đánh quen trăm trận, sức dư muôn người” luôn chiếm lĩnh đầu óc chúng ta. Nhưng nếu nhìn lại từ nhiều góc cạnh, dưới mọi cung bậc, mối quan hệ Võ Nguyên Giáp với đất và người Quảng Nam-Đà Nẵng, chúng ta có thể thấy còn nhiều điều mới lạ, đặc sắc làm chúng ta càng yêu mến hơn mảnh đất này và càng thấy tầm cao hơn của cuộc đời vô cùng phong phú của Võ Nguyên Giáp.

NGUYỄN ĐÌNH AN

;
.
.
.
.
.