.
TRUYỆN NGẮN

Những thanh âm từ sông

.

Sơ khai du mục tầm phương thảo

Bùi Giáng

Cả cái thị trấn Núi Nhạn quanh năm lấm lem bụi đỏ này hầu như không ai không biết tới “Nhiên khùng”. Thị trấn lấm lem bụi đỏ là vì vị thế địa lý nằm trên một vùng đất giáp với núi non, chỉ một vài con đường cái lớn đất cấp phối đầy những ổ gà ổ voi, hễ mùa mưa thì bùn đất lênh láng, mùa nắng hạn thì bụi bay mù mịt.

Từ ngày chỉnh trang quy hoạch lại, đường cũ mở rộng ra, đường mới ngổn ngang đất đá, tiến độ ì ạch kéo dài từ năm này qua năm khác chưa xong, nên đã bụi bặm lại càng thêm bụi bặm.

Trong lúc dân thị trấn, mọi người chen chúc nhau chường cho được ra mặt tiền đường cái, chí ít cũng là một con hẻm lớn ở trung tâm thị trấn, anh Nhiên thì ngược lại, xin chuyển nhà từ thị trấn vào dưới chân núi Nhạn.

Đây là một khu đất hoang nằm ở ngoại ô thị trấn trải dài dưới chân núi Nhạn uốn lượn theo dòng sông Yên. Và vì giữa khu đất có một cái lô cốt từ thời chiến tranh còn lại nên khu đất hoang này có tên gọi là đất lô cốt.

Minh họa: HOÀNG ĐẶNG
Minh họa: HOÀNG ĐẶNG

Chính quyền thị trấn Núi Nhạn thấy lâu nay khu đất hoang này cây cỏ dại mọc um tùm, đã thành chỗ lưu niên cho dân thị trấn đổ đủ các loại rác thải gây ô nhiễm môi trường, nên khi tiếp nhận đơn xin khai hoang mở trang trại của anh Nhiên, ông chủ tịch thị trấn cười tủm tỉm nói lầm thầm: “May đâu có thằng cha khùng này mà xóa đi được cái điểm đen ô uế môi trường bấy lâu nay”.

Vậy là cơ quan tài nguyên môi trường cứ y theo bút phê đầy “thiện ý” của ông chủ tịch trong đơn, đã cấp khu đất lô cốt cho anh Nhiên. Ngày đi nhận tấm bìa đỏ công nhận quyền sử dụng đất về, anh Nhiên hả hê khoe với vợ “chiến công” tay không bắt giặc của mình. Ai ngờ chị Tú vợ anh giậm chân kêu trời: “Trời đất! Ông khùng ơi là ông khùng, tưởng ông nói chơi chơi, ai ngờ ông làm thiệt dắt vợ con vào cái hố rác trong hóc núi”.

Kêu trời trong nhà chưa đủ, chị Tú đi kêu với hàng xóm, với bà con bạn bè, với bất cứ nơi nào kêu được thì kêu. Đi đâu chị cũng mở đầu kể tội tình đức ông chồng quý hóa, rằng: “Ông Nhiên nhà tôi khùng hết thuốc chữa rồi. Ai đời thời buổi người ta chạy ngõ trước ngõ sau để được lô này lô kia mặt tiền ở phố, còn ổng lên cơn khùng đày ải vợ con vào tít tận xó núi” .

Đấy là buổi chiều đang dần tối, nằm với anh Nhiên trên nóc lô cốt ngắm trăng non chênh chếch xuyên qua vòm lá thấp, tôi nghe anh dông dài kể lể cái lý do về sự ra đời của cái tên “Nhiên khùng”. Nói rồi anh cười ha hả bảo: “Cái tay chủ tịch ngày ấy tưởng lầm thầm trong miệng, tớ không nghe thấy gì à, tớ còn thừa biết ý chả mượn tay tớ để xóa sổ cái núi rác ấy chứ. Nhưng miễn được việc mình mới là cái đích tới cậu ạ”.

Khoảnh khắc ấy, chả biết ngẫu hứng thế nào anh Nhiên lại véo von đọc thơ như giễu cợt với chính mình: Bởi quen ăn nói lùng khùng/ Trăm năm xã hội không dùng được cha!

Mà kể ra cũng... không ai dùng được anh Nhiên thật. Thời còn bao cấp, anh từng theo học ngành Mỹ thuật. Nhưng từ ngày ra trường anh chẳng xin được việc làm ở đâu, nên về quê lèng xèng mấy công việc pa-nô áp-phích ở xã, và rồi lấy vợ sinh con không rời quê nửa bước.

Có người bảo là do lý lịch của anh không rõ ràng, có người lại bảo anh có vẻ manh manh, anh thần kinh, chả biết đâu mà lần chuyện đám đông. Là người cùng làng, nhưng tôi nhỏ cách xa anh Nhiên gần giáp tuổi, công việc tôi lại ở phố quanh năm, cái khoảng cách ấy dường như để thêm khói sương những câu chuyện kể về anh, để hình ảnh anh đối với tôi luôn là một huyền thoại.

Lý ra chiều nay, xong cái đám chạp mả ở nhà thờ tộc là tôi chạy xe thẳng một mạch về thành phố. Vậy rồi trong khi ngồi ăn giỗ, chuyện xưa chuyện nay thế nào lại dẫn tới cái đề tài “Nhiên khùng”. Lại sôi nổi gần như choán chỗ hết mọi câu chuyện khác. Ai cũng bảo: “Cái khùng của anh Nhiên là của quý, của hiếm”. Rồi lại còn quy đổi thành tiền “Bạc tỷ cũng không mua nổi cái khùng ấy”.

Tay chủ tịch thị trấn nay đã về hưu, vốn người có họ hàng cháu ngoại của tộc họ tôi, thì vừa vồn vã nói về cái trang trại bạc tỷ của anh Nhiên, vừa tỏ ra chút ơn ban phát: “Chưa tính tới hoa lợi cây trái, tính sơ sơ cái giàn bông lý dài cả cây số bên sông Yên, cứ mỗi buổi sáng sớm dân buôn rau sạch ở ngoài phố vào hái cân, bà Tú vợ ông Nhiên đã thu mấy triệu bạc tráng miệng rồi. Không có tui thì “Nhiên khùng” làm chi có cơ ngơi đồ sộ như bây giờ”.

Trong nhiều lời bàn bạc vào ra sôi nổi về cái trang trại ở khu đất lô cốt của vợ chồng anh Nhiên chị Tú, chỉ có bác giáo Khâm trưởng tộc của tôi là không mảy may động tới bạc tiền. Bác ngồi rung đùi nghe đám con cháu đoán già đoán non, tiếng to tiếng nhỏ về nguồn thu nhập kinh tế của anh Nhiên chị Tú, chợt bác nâng tách rượu lên, hớp một ngụm, khà một tiếng rõ to rồi khẽ khàng đọc câu thơ như nói giữa trời không: Sơ khai du mục tầm phương thảo.

Mọi con mắt ngơ ngác hướng về bác chả hiểu bác nói điều gì. Cho mãi đến khi tiệc giỗ xong rồi, bác mới kéo tôi ngồi vào chiếu trà bày trên nền gạch hoa trước hàng hiên tự đường, giọng khàn khàn bác hỏi tôi: “Nghe nói cháu làm nhà báo hử, tức là người có chữ chứ gì, vậy cháu hiểu câu thơ bác đọc vừa rồi là ý bác muốn nói gì đây?”. Tôi nhỏ nhẹ “dạ dạ”, vừa bưng ấm trà sẵn từ bao giờ rót vào từng ly, vừa thơ mơ trả lời: “Dạ, ý bác muốn nói anh Nhiên là kẻ du mục đi tìm cỏ thơm ở chân núi Nhạn (chứ làm kinh tế chỉ là việc phụ)”.

Nghe tôi diễn dịch ứng vào trường hợp anh Nhiên, bác trưởng tộc cười ha hả như kiểu hát bộ, rồi ông vỗ vỗ vào vai tôi khen lấy khen để: “Giỏi, giỏi, thằng này giỏi”. Thú thật, tôi chả giỏi giang gì, thơ ấy vốn của thi sĩ Bùi Giáng, tôi đã đọc không biết bao lần, nay liên tưởng đến việc ngược đời “bỏ phố về rừng” của anh Nhiên mà đoán chừng cái ý của bác trưởng tộc. “Tầm phương thảo - đi tìm cỏ thơm, đấy mới là cái lý do thằng Nhiên chọn lựa đất dưới chân núi Nhạn mà tìm về cháu ạ!”. Giọng bác giáo Khâm đều đều như dẫn tôi vào thăm thẳm cổ tích...

“... Thời đánh Tây năm xưa quân đội Pháp xây dựng cái lô cốt đôi to tướng dưới chân núi Nhạn, nằm bên bờ sông Yên. Đây là vị trí quan trọng, một mặt canh giữ con đường bộ dẫn lên đồn Tây trên núi Nhạn, mặt khác để kiểm soát con đường thủy là sông Yên, đoạn chảy qua chân núi. Qua đến thời chế độ Sài Gòn, cái lô cốt này biến thành một lao xá, tức là nhà tù, nơi giam giữ người tham gia kháng chiến bị bắt vào đây. Trong số những tù nhân năm ấy có cô Kiều Thị Phúc, con gái của làng mình...”.

Nghe đến đây tôi hỏi chen vào: “Là cô Phúc mẹ của anh Nhiên phải không bác?”. “Ừ, mẹ của thằng Nhiên đấy”. Bác giáo Khâm đưa ly trà lên uống một hơi cạn ly, rồi kể tiếp: “Hồi đó Phúc là một nữ sinh xinh đẹp của trường trung học ở thị trấn.

Người ta đoán chừng cô ấy bị bắt chẳng phải vì hoạt động bí mật bị lộ, mà vì cô... quá đẹp. Mấy cha nội cảnh sát ở quận đeo đuổi tán tỉnh Phúc mãi không được nên chơi trò hèn thủ đoạn, cài bẫy bỏ truyền đơn vào trong cặp sách của Phúc, rồi bày trò khám xét phát hiện, bắt Phúc vào giam ở nhà lao. Từ đấy số phận lại đưa đẩy cô qua một con đường run rủi khác.

Những năm tháng trong nhà tù, nghe đâu Phúc đã cảm hóa và yêu viên trung sĩ trông coi lính gác nhà lao. Tình yêu thầm kín của họ đã không che giấu được viên sĩ quan chỉ huy trại giam. Vậy là tay trung sĩ bị đày ra một đơn vị tác chiến, và rồi sau đó mất tích luôn trong một chiến trận nào đó.

Số phận của Phúc cũng đầy bất trắc. Niềm hy vọng cuối cùng tình yêu của Phúc là đứa con lớn trông thấy từng ngày trong bụng cô. Cho đến một ngày Phúc sinh nở trong nhà tù. Một nơi đầy bóng tối như thế mà ơn trời, thằng bé trai kháu khỉnh khôi ngô, được “nâng như trứng, hứng như hoa” không chỉ là bàn tay mẹ Phúc chăm chút, mà còn là bàn tay thương yêu của tất cả các cô các bác ở trong tù.

Cho đến một ngày thằng bé độ sáu tháng tuổi, Phúc đã tìm cách gửi con về quê cho người chị ruột nuôi dưỡng, còn cô nuôi ý nghĩ quyết vượt ngục. Nhà giam nằm trên miệng vực dòng sông Yên. Quy chế cho các tù nhân là ngày hai lần, sáng sớm và chiều tối được xuống sông làm vệ sinh, giặt giũ tắm rửa. Một chiều tối Phúc lấy cớ làm vệ sinh lâu hơn, kéo dài thời gian chờ tối hẳn sẽ vượt sông Yên.

Lựa chọn này Phúc đã tính toán khả năng của mình, từ thời đi học cô đã từng đoạt giải bơi lội của trường. Nhưng có một điều Phúc không lường hết được, đoạn sông chảy qua chân núi Nhạn nước vừa sâu vừa có nhiều xoáy nước chảy ngầm hung tợn. Đêm ấy vượt sông, Phúc đã bị dòng nước xoáy cuốn chìm không làm sao bơi qua được tới bờ bên kia. Con sông định mệnh đã vĩnh viễn ngăn đường Phúc trở về với đứa con trai côi cút của mình”.

Kể tới đây con mắt bác giáo Khâm đỏ rưng rưng, mắt tôi cũng cay xè. Chiến tranh đã lùi thật xa, bao bi kịch của cuộc chiến giờ cũng đã rêu xanh, những vết thương xưa đã thành sẹo theo từng tháng năm vùi lấp dưới mấy lớp cỏ xanh hòa bình.

Bác giáo Khâm nói là kể lại cho tôi nghe để tôi hiểu ra con đường cỏ thơm mà anh Nhiên bây giờ đang gieo vãi dưới chân núi Nhạn. Nhìn ra ngoài sân, nắng chiều vàng vọt úa rồi, tôi “vâng dạ” rồi xin phép bác trưởng tộc ra về. Chạy xe ra khỏi cổng nhà thờ tộc, trước mắt tôi là núi Nhạn ửng ráng màu chiều dưới ánh trăng non thượng tuần treo lơ lửng chênh chếch một góc trời.

Bỏ xe máy đầu cổng ngõ, tôi lang thang bước vào trang trại của anh Nhiên. Chừng như nghe tiếng xe máy ngoài đầu ngõ, anh trong nhà bước ra xem chừng. Gặp tôi, anh hơi chững lại, ngạc nhiên nhìn giây lát rồi mới gọi tên: “Ui trời đất... cậu Hoàng, cậu từ đâu mà rơi xuống giữa giờ này?”.

Hỏi rồi không đợi tôi kịp trả lời, anh Nhiên xúc động cầm tay tôi giật giật bảo: “Hiếm có khi Hoàng đến mà mẹ con Tú lại về ngoại vắng nhà, nhưng chẳng sao, trang trại gà vịt không thiếu thứ gì”. Tôi nói với anh: “Đã ăn tiệc giỗ ở nhà thờ tộc suốt từ trưa cho đến chiều, bụng dạ đâu mà chứa gà vịt nữa”. Đứng nhìn một lượt khắp trang trại, đập vào mắt tôi không phải các giống loài cây quả xanh ngát mênh mông, mà là cái hoa viên phía trước cái lô cốt.

Hoa viên được tỉa tót bố trí vòng theo hình xoắn ốc, cứ mỗi vòng là một màu hoa, cho đến tâm điểm là một pho tượng đá tạc hình một người con gái ôm cặp sách trước ngực. Vòng xoắn dưới chân tượng đá là những cây hoa quì xứ Phật, lá có hình rẻ quạt, hoa nở tím ngan ngát đưa mùi hương chanh.

Nhìn đằng sau hoa viên tôi phát hiện cái lô cốt thấp lè tè, meo mốc dày mấy lớp trông như một ngôi cổ mộ chìm khuất phía sau pho tượng. Anh Nhiên bảo: “Hơn nửa thế kỷ rồi, bao trận lụt lớn đã bồi lấp mất cái lô cốt chỉ còn cái nóc nhỏ nhô lên”. Nói rồi anh kéo tay tôi bước lên nóc lô cốt. Chả ai bảo ai, chúng tôi cùng nằm xuống ngửa mặt nhìn trời. Vầng trăng non khuyết nhọn ngược màu mây chìm dần về phía thượng nguồn. Gió từ sông Yên lao xao dào dạt thổi qua vườn đồi rì rào một thứ âm thanh như tiếng của ai đó đang về!

NGUYỄN NHÃ TIÊN

;
.
.
.
.
.