Giải phóng Đà Nẵng 1975: Tận dụng thời cơ hành động

Sự kiện giải phóng Đà Nẵng ngày 29-3-1975 vừa là tổng hòa kết quả của cả một quá trình gian khổ dưới sự lãnh đạo linh hoạt, sáng tạo và tinh thần tiến công của Đảng gắn với những con người cụ thể; vừa có ý nghĩa trong việc rút ra những kinh nghiệm để Trung ương thực hiện tốt các nhiệm vụ to lớn hơn là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Đồng chí Hồ Nghinh (áo trắng, đứng) - Bí thư Đặc Khu ủy Quảng Đà cùng Bộ Tư lệnh Mặt trận 4 Quảng Đà bàn kế hoạch tiến công, giải phóng Đà Nẵng. (Ảnh tư liệu)
Đồng chí Hồ Nghinh (áo trắng, đứng) - Bí thư Đặc Khu ủy Quảng Đà cùng Bộ Tư lệnh Mặt trận 4 Quảng Đà bàn kế hoạch tiến công, giải phóng Đà Nẵng. (Ảnh tư liệu)

Linh hoạt và sáng tạo

Ngày 5-1-1975, Khu ủy Khu 5 ban hành Chỉ thị số 54 gửi các tỉnh, thành, thị ủy nêu rõ mục tiêu chính trị trước mắt của thành thị, nhất là tại đô thị Đà Nẵng là: “Đánh đổ Thiệu và phe cánh, thành lập một chính quyền tán thành hòa bình, nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Paris. Thấy hết ý nghĩa chính trị của mục tiêu trên, coi đó là đường đi cách mạng đúng đắn nhất, có lợi nhất cho cách mạng và cho nhân dân thành thị”(1). Để thực hiện mục tiêu đó, phải nhớ “thuộc lòng” 5 vấn đề mấu chốt: Tập hợp đông đảo quần chúng, phát huy vai trò lực lượng thứ 3; đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, thi hành Hiệp định Paris; khoét sâu mâu thuẫn làm cho địch khủng hoảng nghiêm trọng và sâu sắc; đẩy mạnh đấu tranh chính trị; xây dựng và phát triển thực lực.

Vào thời điểm đầu năm 1975, việc Khu 5 đề ra các nhiệm vụ này có ý nghĩa đáp ứng hai yêu cầu được đặt ra về tính đặc thù trong đấu tranh khu vực đô thị, vừa thực hiện một giải pháp hòa bình, một bước đệm để thực hiện mục tiêu cao hơn: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Một nhiệm vụ cụ thể để việc giải phóng diễn ra “hòa bình” là vận động binh lính chính quyền Sài Gòn rã ngũ. Vì vậy, ngày 5-3-1975, Đặc Khu ủy Quảng Đà ban hành chỉ thị về đẩy mạnh tấn công binh vận, yêu cầu gắn chặt công tác binh vận với dân vận, kết hợp chặt chẽ với tấn công quân sự và nổi dậy của quần chúng. Trong đó: “Làm tan rã lớn lực lượng địch, phá rã cơ bản phòng vệ dân sự, phá rã làm mất tác dụng lực lượng dân vệ, vận động đào rã ngũ đưa về vùng ta, đánh tụt quân số địch, góp phần làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch. Công tác binh vận phải hình thành một thế trận ở từng địa phương từng vùng. Phải thành một đòn tiến công chính trị ở thành phố, đưa lên thế bao vây áp đảo địch”(2).

Với tính chất quan trọng này, ngày 13-3-1975, Đặc Khu ủy Quảng Đà tiếp tục ban hành chỉ thị về công tác binh vận, với giải pháp: “Huy động từ 40 đến 50 nòng cốt xung kích hợp pháp chú trọng sử dụng gia đình binh sĩ để tiến công trực diện, trực tiếp đưa tối hậu thư cho sĩ quan đóng ở địa phương; huy động toàn bộ quần chúng, gia đình binh sĩ sáp vào đồn bót với khí thế khởi nghĩa, giành chính quyền quyết giành giật lính ở lại với dân, với gia đình, không chạy theo địch, không để địch cuốn dân chạy theo chúng”(3). Chỉ đạo trên chính là tiền đề cho sự kiện binh biến của hơn 3.000 binh sĩ tại Trung tấm huấn luyện Hòa Cầm sáng ngày 28-3-1975, góp phần quyết định làm phá sản kế hoạch tử thủ Đà Nẵng của Ngô Quang Trưởng, tiến đến giải phóng Đà Nẵng ngày 29-3-1975.

Việc bảo vệ lực lượng được đặt ra hàng đầu, nhất là thanh niên và học sinh. Tại công điện ngày 7-3-1975, Khu ủy Khu 5 gửi Đà Nẵng chỉ đạo: “Giao cho Ban thành phố vạch chỉ tiêu rút thanh niên, học sinh nội trú vùng ven ra vùng giải phóng, riêng Đà Nẵng từ 1.000 đến 1.500 học sinh và thanh niên”(4). Đây là một chiến lược vừa bảo vệ nhân lực trẻ để thực hiện kiến thiết đất nước, thành phố sau khi giải phóng, vừa tránh việc đối phương bắt người đi lính để tăng cường lực lượng, gây tổn thất không đáng có.

Một vấn đề khác được đặt ra ngay đầu tháng 3-1975 là tổ chức nắm dân và vận động dân thành phố về lại vườn cũ, làng cũ. Ngày 9-3-1975, Đặc Khu ủy Quảng Đà ban hành chỉ thị về khẩn trương tổ chức nắm dân và vận động dân thành phố về lại làng cũ, với câu hỏi “Xem sự kèm kẹp của địch đối với từng người hiện nay ra sao? Những bà con của họ có những ai, hiện làm gì, ở đâu? Trên cơ sở đó mà tổ chức tuyên truyền vận động, bắt mối lính thành tổ chức, xây dựng thực lực cách mạng nhằm hướng dẫn lôi kéo họ về”(5).

Quân giải phóng tiến vào giải phóng Đà Nẵng ngày 29-3-1975. (Ảnh tư liệu)
Quân giải phóng tiến vào giải phóng Đà Nẵng ngày 29-3-1975. (Ảnh tư liệu)

Đẩy mạnh phong trào thành thị lên một bước mới

Giữa tháng 3-1975, trước diễn tiến mau lẹ của tình hình, Khu ủy Khu 5 ban hành chỉ thị gửi thường vụ các tỉnh, tiền phương các tỉnh, yêu cầu tập trung đẩy mạnh phong trào thành thị lên một bước mới. Chỉ thị yêu cầu: “Đẩy hoạt động của du kích mật, của các đội đặc công, biệt động, mũi nhọn, pháo kích đánh hậu cứ, kho tàng, sân bay, bến cảng, diệt ác ôn, đẩy mạnh võ trang tuyên truyền động viên quần chúng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh chính trị, binh vận làm lỏng kẹp, làm cho địch rệu rã, đưa khí thế quần chúng lên, tiến lên làm cho địch không còn cai trị được, ra sức phát triển cơ sở, nòng cốt cách mạng, chuẩn bị cho cuộc nổi dậy của quần chúng”(6).

Đồng thời, đẩy mạnh công tác binh vận lên quy mô mới để “làm chuyển biến mạnh hơn các loại quân ngụy, thúc đẩy tan rã nhanh một bộ phận quan trọng quân ngụy nhằm làm cho quân ngụy tụt nhanh quân số, giảm nguồn dự trữ, bổ sung, góp phần tích cực giành lại quần chúng của ta trong tay địch, đánh sụp một lực lượng quân sự của địch”(7).

Để tiến lên một bước mới của tổng tiến công và nổi dậy, ngày 23-3-1975, Thường vụ Khu ủy Khu 5 và Thường vụ Quân khu ủy 5 có lời kêu gọi gửi cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên nhân dân cách mạng, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, với khẩu hiệu hành động là: Tất cả cho đánh đổ chính quyền địch, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. Điểm đặc biệt là lời kêu gọi đã đề ra các nhiệm vụ cần kíp ngay sau giải phóng, vừa khẳng định tính tất yếu của một chiến thắng sắp đến gần để tạo niềm tin vững chắc, vừa định hướng quan điểm để thực hiện nhiệm vụ tiếp quản.

Lời kêu gọi nêu rõ: “Các lực lượng hãy nỗ lực vượt bực tấn công địch với thế chẻ tre, chần chừ, do dự, chờ đợi trong lúc này là sai lầm, tội lỗi”. “Ở vùng mới giải phóng, cán bộ phải khiêm tốn, cảnh giác, làm việc khẩn trương”. “Đứng trước thời cơ ngàn năm có một, mỗi cán bộ, chiến sĩ hãy đạp bằng mọi khó khăn, trở ngại dám hy sinh quyết giành thắng lợi hoàn toàn, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”(8).

Đối với thành phố Đà Nẵng, ngay ngày hôm sau (24-3-1975), hưởng ứng lời kêu gọi của Khu ủy Khu 5 và trong tình thế đối phương đang rất hoang mang, hỗn loạn, đang chuẩn bị cuốn chạy, Đặc Khu ủy Quảng Đà ban hành Chỉ thị khởi nghĩa số 1, yêu cầu: “Thành lập Ủy ban khởi nghĩa các cấp và họp bàn ngay kế hoạch khởi nghĩa địa phương mình đồng thời chuẩn bị điều kiện khởi nghĩa thành phố. Các quận nội thành phải cấp tốc đưa cơ sở bên trong ra phổ biến tình hình, giao nhiệm vụ khởi nghĩa(9).

Tự vệ thành phố Đà Nẵng phối hợp Quân Giải phóng giữ gìn trật tự đường phố sau ngày giải phóng. (Ảnh tư liệu)
Tự vệ thành phố Đà Nẵng phối hợp Quân Giải phóng giữ gìn trật tự đường phố sau ngày giải phóng. (Ảnh tư liệu)

Ngày 29 tháng 3 năm 1975

Để giải phóng Đà Nẵng ngày 29-3-1975, đó là một quá trình nỗ lực, sáng tạo trong việc nắm thời cơ, nhưng trên hết là sự sáng suốt trong nhận định tình hình và kịp thời hành động, không chần chừ khi thời cơ chín muồi. Một ví dụ điển hình và trực tiếp là đến ngày 28-3-1975 theo kế hoạch sẽ giải phóng Đà Nẵng ngày 31-3-1975, nhưng đồng chí Trần Hưng Thừa, Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà, Bí thư Quận I Đà Nẵng khi vào nội thành, sau khi nắm tình hình đã nhạy bén cấp tốc báo cáo cấp trên để giải phóng Đà Nẵng sớm hơn dự kiến. Tại bức điện gửi cho Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà lúc 23 giờ ngày 28-3-1975 nêu rõ: “Ngô Quang Trưởng cùng Bộ Tư lệnh Vùng I chiến thuật đã bỏ chạy ra Hạm đội 7. Địch vô cùng rối loạn, không còn sức chống cự, thành phố gần như bỏ ngỏ. Đề nghị đưa lực lượng vũ trang vào ngay giải phóng thành phố, không chờ đến ngày 31-3. Bên trong nội thành, chúng tôi phát lệnh khởi nghĩa phối hợp với bên ngoài giải phóng thành phố”(10).

Ngay sáng hôm sau (29-3-1975), đồng chí Võ Chí Công, Bí thư Khu ủy Khu 5, có công điện gửi Trung ương báo cáo: “Hiện nay đang phát triển ra phía bắc và tấn công vào bên trong thành phố, bên trong thành phố quần chúng đang sôi nổi nổi dậy khởi nghĩa”. Đến trưa ngày 29-3-1975, lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên nóc Tòa Thị chính Đà Nẵng, chính thức báo hiệu thành phố Đà Nẵng được giải phóng.

Bài học tận dụng thời cơ

Ngày 3-5-1975, Báo Nhân Dân có bài bình luận về chiến thắng tại Đà Nẵng như sau: “Chiến thắng Đà Nẵng là một thành công lớn của sự kết hợp giữa tiến công về quân sự và nổi dậy của quần chúng”; “là một mẫu mực về nghệ thuật phát triển, tận dụng thời cơ hành động rất kiên quyết, linh hoạt, dám mạnh dạn thay đổi những lối đánh thông thường bằng những lối đánh táo bạo, phù hợp với tình hình địch và ta đang thay đổi mau lẹ, không phải là từng ngày mà thậm chí từng giờ”.

Đồng chí Phạm Văn Đồng trong bài nói chuyện nhân dịp thăm cán bộ trung cao cấp ở Khu 5 và thành phố Đà Nẵng tháng 7-1975 đã nhận xét: “Chiến thắng ở Đà Nẵng là chiến công mở đầu đưa đến thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam, đem lại độc lập tự do cho Tổ quốc Việt Nam ta”(11). Các đánh giá này thể hiện đúng tính chất trong việc lãnh đạo tiến công và nổi dậy giải phóng Đà Nẵng năm 1975.

VÕ HÀ

_______

1. Hồ sơ L-II-316. Lưu tại Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Đà Nẵng.

2. Hồ sơ L-II-317. Lưu tại Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Đà Nẵng.

3. Hồ sơ L-II-315. Lưu tại Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Đà Nẵng.

4. Công điện số 64/7/3 ngày 07/3/1975, Khu ủy Khu 5 gửi Đà Nẵng. Lưu tại Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Đà Nẵng.

5. Hồ sơ L-II-320. Lưu tại Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Đà Nẵng.

6. Chỉ thị số 03/CT ngày 18-3-1975 của Khu ủy Khu 5 gửi thường vụ các tỉnh, tiền phương các tỉnh. Hồ sơ O-VI-18. Lưu tại Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Đà Nẵng.

7. Chỉ thị số 03/CT ngày 18-3-1975, đã dẫn.

8. Hồ sơ O-VI-29. Lưu tại Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Đà Nẵng.

9. Hồ sơ L-II-319. Lưu tại Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Đà Nẵng. 

10 Hồ sơ O-VI-21 lưu tại Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương

11. Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Đà Nẵng, Đà Nẵng Xuân 1975, NXB Đà Nẵng, 2020.

;
;
.
.
.
.