.

Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ra đi

.

THÔNG CÁO ĐẶC BIỆT

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vô cùng thương tiếc báo tin:


Đồng chí VÕ VĂN KIỆT, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX, Huân chương Sao vàng, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng. Sau một thời gian lâm bệnh nặng, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao, bệnh nặng, đồng chí đã từ trần hồi 7 giờ 40 phút, ngày 11-6-2008, thọ 86 tuổi.

Đồng chí Võ Văn Kiệt, tên khai sinh là Phan Văn Hòa, bí danh: Sáu Dân, sinh ngày 23-11-1922 tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Đồng chí tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi, hoạt động trong phong trào Thanh niên phản đế. Năm 1939, đồng chí vào Đảng Cộng sản Đông Dương, làm Bí thư Chi bộ, Huyện ủy viên và tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vũng Liêm. Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, khi thực dân Pháp tái chiếm Nam Bộ, đồng chí làm Ủy viên chính trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam Bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí được giao các nhiệm vụ Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Rạch Giá, Phó Bí thư rồi Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu. Từ năm 1955 và trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng chí làm Xứ ủy viên, Phó Bí thư Liên tỉnh ủy Hậu Giang, Bí thư Khu ủy T.4 (Sài Gòn - Gia Định), Bí thư Khu ủy Khu 9, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam. Năm 1976, đồng chí làm Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh rồi làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, đồng chí được điều về Trung ương công tác.

Hoạt động cách mạng liên tục trên 70 năm, đồng chí đã có nhiều công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
 
Đồng chí mất đi là một tổn thất đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Để tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn đồng chí Võ Văn Kiệt, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định tổ chức tang lễ đồng chí Võ Văn Kiệt với nghi thức Quốc tang.

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM


TÓM TẮT TIỂU SỬ ĐỒNG CHÍ VÕ VĂN KIỆT

Đồng chí VÕ VĂN KIỆT; tên khai sinh là Phan Văn Hòa; bí danh : Sáu Dân. Sinh ngày 23-11-1922, tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1938, đồng chí tham gia hoạt động trong phong trào Thanh niên phản đế.

Tháng 11-1939, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, làm Bí thư Chi bộ, Huyện ủy viên và tham gia cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Từ năm 1941 đến năm 1945, đồng chí hoạt động cách mạng ở Rạch Giá, tham gia Tỉnh ủy lâm thời và tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở tỉnh Rạch Giá. Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, khi thực dân Pháp tái chiếm Nam Bộ, đồng chí làm Ủy viên Chính trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam Bộ.

Năm 1950, đồng chí được điều về tỉnh Bạc Liêu làm Phó Bí thư rồi Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu. Năm 1955, đồng chí được bầu làm Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ, Phó Bí thư liên Tỉnh ủy Hậu Giang. Năm 1959, đồng chí được điều về Khu Sài Gòn - Gia Định làm Bí thư Khu ủy T.4 (Sài Gòn - Gia Định) cho đến cuối năm 1970.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (năm 1960), đồng chí được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Là Ủy viên Trung ương Cục miền Nam, đồng chí tiếp tục làm Bí thư Khu ủy T.4 (Sài Gòn - Gia Định), rồi Bí thư Khu ủy Khu 9 (Khu Tây Nam Bộ). Năm 1972 đồng chí được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III.

Từ năm 1973 đến 1975 đồng chí được điều về công tác ở Trung ương Cục và là Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam. Trong thời gian chuẩn bị giải phóng Sài Gòn, đồng chí được Trung ương Cục phân công làm Bí thư Đảng ủy đặc biệt trong Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn. Năm 1976 đồng chí làm Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh. Đồng chí được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá VI.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (năm 1976), đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị và được phân công làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Tháng 2-1987, đồng chí được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa VIII và được Quốc hội phê chuẩn giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Phó Chủ tịch Thường trực rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá VIII, đồng chí được Quốc hội phê chuẩn giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; sau đó, tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá VIII (tháng 8-1991), đồng chí được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6-1996), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị và được cử làm Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị.

Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá IX (1992 - 1997), đồng chí được Quốc hội bầu làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Từ tháng 12-1997 đến tháng 4-2001, đồng chí được Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đồng chí là đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX. Do có công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng chí đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, nhiều huân chương, huy chương cao quý khác và Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.

(Theo TTXVN)


DANH SÁCH BAN LỄ TANG ĐỒNG CHÍ VÕ VĂN KIỆT

Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

1- Đồng chí NÔNG ĐỨC MẠNH, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Trưởng ban lễ tang.

2- Đồng chí NGUYỄN MINH TRIẾT, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

3- Đồng chí NGUYỄN TẤN DŨNG, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

4- Đồng chí NGUYỄN PHÚ TRỌNG, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

5- Đồng chí TRƯƠNG TẤN SANG, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư.

6- Đồng chí NGUYỄN SINH HÙNG, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ.

7- Đồng chí HỒ ĐỨC VIỆT, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương.

8- Đồng chí NGUYỄN VĂN CHI, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương.

9- Đồng chí PHẠM GIA KHIÊM, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

10- Đồng chí TRƯƠNG VĨNH TRỌNG, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ.

11- Đồng chí Đại tướng PHÙNG QUANG THANH, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

12- Đồng chí Đại tướng LÊ HỒNG ANH, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an.

13- Đồng chí LÊ THANH HẢI, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh.

14- Đồng chí PHẠM QUANG NGHỊ, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội.

15- Đồng chí TÒNG THỊ PHÓNG, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội.

16- Đồng chí Đại tướng LÊ VĂN DŨNG, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

17- Đồng chí TÔ HUY RỨA, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương.

18- Đồng chí HUỲNH ĐẢM, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

19- Đồng chí NGUYỄN THIỆN NHÂN, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.

20- Đồng chí HOÀNG TRUNG HẢI, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ.

21- Đồng chí HÀ THỊ KHIẾT, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương.

22- Đồng chí TRẦN VĂN HẰNG, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương.

23- Đồng chí VÕ HỒNG PHÚC, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

24- Đồng chí TRẦN VĂN TUẤN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

25- Đồng chí ĐẶNG NGỌC TÙNG, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

26- Đồng chí NGUYỄN QUỐC CƯỜNG, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam.

27- Đồng chí NGUYỄN THỊ THANH HOÀ, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

28- Đồng chí VÕ VĂN THƯỞNG, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

29- Đồng chí Trung tướng TRẦN HANH, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

30- Đồng chí TRƯƠNG VĂN SÁU, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long.

31- Đồng chí PHAN TẤN ĐẠT, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu.

32- Đồng chí TRƯƠNG QUỐC TUẤN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang.

33- Đồng chí VÕ THANH BÌNH, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Cà Mau.
            
(Theo TTXVN)


 

Anh Sáu Dân không thể ra đi


Những năm sau ngày toàn thắng, trong cơ chế quan liêu bao cấp, phải gồng mình chống chọi với biết bao khó khăn thiếu thốn ở vùng đất quá nhiều hậu quả của chiến tranh và luôn chịu thiên tai khắc nghiệt, đôi lúc chúng tôi nhận được từ Sài Gòn những tin tức, những câu chuyện về đồng chí Võ Văn Kiệt, về anh Sáu Dân, một nhà lãnh đạo luôn thương yêu dân và có những hành động xé rào vì cuộc sống của dân.

Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt về thăm Đà Nẵng, Quảng Nam tháng 3-2006.


Chúng tôi rất mong có dịp được gặp đồng chí. Thế rồi một năm đầu thập kỷ 80, khi ra công tác ở Trung ương, nhận nhiệm vụ Phó Thủ tướng, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, đồng chí đã về làm việc ở QN-ĐN.  Lúc này, QN-ĐN đã được cả nước biết đến với công trình đại thủy nông Phú Ninh với hơn 90% nông dân vào hợp tác xã và với những kỷ lục về năng suất lúa…

Anh Phạm Đức Nam, Chủ tịch UBND tỉnh đã đưa đồng chí về thăm và làm việc ở Đại Lộc, nơi đây có HTX Đại Phước, trồng lúa kỹ như làm vườn đạt năng suất  21 tấn/ha. Cùng đi với anh Sáu Dân có anh Tư Ánh (Trần Bạch Đằng), hình như anh Sáu Dân muốn có bên mình một đồng chí cộng sản lão thành, một học giả được xem như có trình độ bách khoa để chia sẻ và tư vấn.

Trên chiếc xe U-oát, lúc này là sang nhất, không có máy lạnh, trời nóng phải mở cửa kính cho có gió thế là ai cũng đầy bụi, các anh cười nói vui vẻ, đoán xem các đồng chí địa phương sẽ chào đón như thế nào. Anh Tư Ánh bảo: “Thế nào mấy chả cũng kính thưa các đồng chí lãnh đạo kính mến.  Dưới ánh sáng nghị quyết…”. Mấy người cười vang. Chí ít phút sau, đồng chí Bí thư Huyện ủy chủ trì cuộc họp sau khi trịnh trọng giới thiệu, các vị cấp trên đã nói như thuộc lòng : “Dưới ánh sáng nghị quyết…”. Tôi thấy mấy ảnh nhìn nhau cười, cố kìm nén không bật cười lớn.

Tối nhớ mãi chuyện này bởi tôi nghĩ một người quyền cao chức trọng như anh Sáu, phải là rất nghiêm túc chứ không thể phản ứng một cách hài hước với bệnh công thức. Anh đúng là một người phá cách, không chấp nhận sự khuôn sáo.

Một lần, UBND tỉnh phân công tôi đi cùng và tiễn Anh đến dốc Sỏi. Anh nói không cần, để tự Đoàn anh đi Quảng Ngãi cũng được. Nhưng khi nghe tôi trình bày Anh còn ghé thăm một số gia đình vừa bị thiệt hại nặng do cơn bão, anh đồng ý.

Ngồi trên xe, Anh hỏi tôi nhiều vì làng mạc, ruộng đồng, việc cầy cấy và đời sống của nông dân, tôi nói: Hồi còn chiến tranh cơ cực ác liệt không nói làm gì. Bây giờ so với mấy năm sau giải phóng cũng khá hơn nhiều nhưng cũng còn vô vàn khó khăn, nhiều thôn xóm không có điện, dân cũng không có tiền mua dầu, trẻ em không học được bài.

Đi qua Thanh Quýt, tôi chỉ cho Anh thấy chòm nhà anh Trỗi, đi ngang Tam Xuân tôi bảo đây là quê hương đồng chí Võ Chí Công. Anh có vẻ suy nghĩ đăm chiêu và bảo tôi: “Đất này nghèo lắm nhưng cũng rất cách mạng, rất anh hùng, trách nhiệm lo cuộc sống cho dân của mấy anh nặng nề lắm”.

Khi thăm mấy gia đình bị thiệt hại do bão, anh hỏi han rất kỹ hoàn cảnh sống của từng nhà, thấy nhiều người gầy quá, rất băn khoăn anh dặn Giáo sư Phạm Song (lúc đó là Bộ trương Y tế đi cùng đoàn): Mấy ông phải kiểm tra kỹ việc chăm sóc sức khỏe, bảo đảm thuốc men cho dân. Chia tay, như chưa bằng lòng với chuyến đi quá ngắn, Anh nói: “Phải đi nhiều lần và kỹ hơn mới hiểu được được xứ Quảng mấy ông”.

Trong một cuộc họp, được nghe anh nói về ý tưởng về xây dựng Khu kinh tế hóa dầu Dung Quất, tôi bị thuyết phục bởi cách trình bày cảm động lòng người của anh, chứng tỏ anh luôn trăn trở, nung nấu một mong ước làm gì để bà con miền Trung vô cùng nghèo khổ và rất cách mạng này bớt đói nghèo, có cơ hội vươn lên cuộc sống ấm no, giàu đẹp.

Ngày 29-3-2000, khi không còn giữ trọng trách trong Đảng và Chính phủ, Anh vẫn có mặt với  nhân dân Đà Nẵng nhân Ngày hội lớn khánh thành cầu Sông Hàn. Anh tỏ ra hài lòng với bài phát biểu của tôi. Nói cho đúng, anh rất vui khi thấy người dân Đà Nẵng với lòng yêu mến thành phố, yêu và tin Đảng và chính quyền thành phố đã nhiệt tình đóng góp xây dựng cây cầu, đã xem công việc xây cầu như việc của mình. Anh nắm chặt tay, động viên tôi.

Từng nhiều năm lăn lộn gắn bó với cách mạng miền Nam, anh rất quý trọng anh Hồ Nghinh, một đồng chí lãnh đạo tài ba, dũng cảm, kiên cường, trụ bám ở chiến trường Quảng Đà. Anh càng quý trọng hơn những đóng góp của anh Nghinh khi làm rõ những nguyên nhân dẫn đến trì trệ trong xây dựng kinh tế và yêu cầu bức bách phải đổi mới toàn diện. Anh và anh Nghinh rất tâm đắc với nhau về những gì các anh đã nghĩ và làm để góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, tiến vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ.

Anh có ấn tượng đẹp về anh Nghinh vì đó là một con người có năng lực tư duy và tư duy độc lập, có chủ kiến và không rào đón, cả hai anh đều rất ghét các loại cơ hội, bảo thủ và lý luận suông không gắn với thực tiễn cuộc sống của đất nước.

Khi đoàn làm phim về anh Hồ Nghinh xin gặp phỏng vấn, Anh rất nhiệt tình, vì như Anh nói Anh rất yêu mến mảnh đất QN-ĐN mà với Anh, anh Hồ Nghinh là người con, là con người tiêu biểu của QN-ĐN. Mấy năm gần đây, cùng với những suy nghĩ về những vấn đề lớn của đất nước, Anh chăm chú theo dõi những bước đi, sự phát triển của Đà Nẵng, có khi anh về tận nơi khảo sát, có khi anh mời các đồng chí lãnh đạo Đà Nẵng vào trò chuyện và anh còn tìm hiểu Đà Nẵng qua ý kiến các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học.

Anh rất vui thấy sự đổi mới lớn mạnh nhanh chóng của Đà Nẵng, từ khi thành thành phố trực thuộc Trung ương. Anh thường nhấn mạnh hai điều, hai bài học. Phải có người lãnh đạo có năng lực, có bản lĩnh dám quyết đoán và dám chịu trách nhiệm, thì mới làm được việc, thành phố mới có đổi mới thực sự.

Lãnh đạo phải được lòng dân. Lãnh đạo phải làm sao dân luôn ở bên cạnh mình, đồng thuận với mình thì những quyết sách của mình mới được dân thực hiện.Khi viết những dòng này tôi vẫn không tin là anh Sáu Dân đã ra đi.

Một con người tâm huyết như thế, trí tuệ như thế, nặng lòng với nước với dân như thế, một con người ở đỉnh cao của quyền lực mà trái tim vẫn đập một nhịp với những người mẹ nghèo miền cát trắng, những em nhỏ vùng núi cao và những nỗi nhọc nhằn vất vả của những người xứ Quảng, người Đà Nẵng. Con người ấy không thể ra đi.Cuộc đời này, vào giữa lúc này đang cần biết bao tầm nhìn và tấm lòng của con người ấy.Xin hãy mong và tin là con người ấy vẫn còn bên cạnh chúng ta.

NGUYỄN ĐÌNH AN

 

;
.
.
.
.
.