.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy:

Viết cái gì biết rõ nhất, chắc nhất

.

Mấy chục năm qua, Nguyễn Sinh Duy là một trong những nhà nghiên cứu hiếm hoi, làm việc với một tinh thần lặng lẽ nhưng vô cùng nghiêm túc, để lại nhiều công trình có giá trị, nhất là các vấn đề sử học Quảng Nam. Ông sinh năm Bính Tý (1936) tại làng Nam Dương, thành phố Đà Nẵng. Quê quán tổ phụ của ông ở làng Ngân Hà, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nay là thôn Ngân Giang thuộc xã Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, đời cố thiên cư ra đất Hàn (Đà Nẵng) tính ra đã tròn 120 năm. Trao đổi với ĐNCT, ông đã kể lại sự khởi đầu...

Nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy.

Sớm mồ côi cha, mẹ góa bụa, với năm mụn con giữa tuổi đang còn thanh xuân, tôi phải bớt đi một miệng ăn bằng cách nhờ bát cơm và cái chữ nơi người cậu ruột làm nhà giáo. Mười bảy tuổi, tôi phải vào đời để mưu sinh. Cũng may, hồi ấy vừa tốt nghiệp được cái “bù rầy mè” (certificat d’Études Primaires) của chương trình giáo dục Cộng hòa Pháp tại Đông Dương, nên được nhận làm thư ký tiếp liệu cho một sở nhà binh Pháp tại Liên Trì-Đà Nẵng.

Công việc của một thư ký tiếp liệu là ghi tên món quân trang, quân dụng vào một thẻ có khoen để treo, với số ký hiệu danh bạ của nó đúng như trong sổ sách. Thao tác đơn giản, nhưng tính cẩn thận đòi hỏi khá cao. Ghi nhầm số lượng, ký hiệu danh bạ là có thể làm thất thoát nhiều món đồ giá trị hoặc phát giao nhầm món này sang món khác. Chiếc bình đông (bidon), cái dây nịt, chiếc ba lô… mỗi thứ phải đúng chủng loại. Sau này, làm công tác nghiên cứu, tính cẩn trọng và chính xác phải chăng bắt nguồn từ những thao tác đầu đời kiếm sống (?).

Trong số những điều đã viết, ông tâm đắc về vấn đề gì nhiều nhất?

Từ nhỏ tôi cũng có viết năm ba truyện ngắn và làm mấy bài thơ. Khi đọc Phạm Quỳnh phê bình “Khối tình con” của Tản Đà, họ Phạm đã hạ một câu độc địa: “Người ta, phi người cuồng, không ai trần truồng mà đi ngoài phố. Nhà làm sách cũng vậy, không ai đem cái thân thế mình mà làm chuyện cho người đời xem”. Từ ấy, bỏ sáng tác quay sang viết biên khảo. Mà trong biên khảo, ngành học thuật có ích cho xã hội không gì bằng sử. Trong sử học đã có đủ các môn: Nhân chủng học, khảo cổ học, ngôn ngữ học, ngữ âm học, văn học, Folklor học, cổ tiền học, v.v… Tủ sách “Những mảnh gương” của Nhà Xuất bản Tân Việt, dường như tôi có đủ. Chính những tấm gương ấy đã soi sáng cho cái học làm người, nhất là người trong những hoàn cảnh chao đảo, nghiệt ngã nhất.

Trong cõi học có 2 cách: Học người nay và học người xưa. Người xưa đã thể hiện bằng tất cả tim óc và ý tưởng làm tốt đẹp xã hội của họ. Viết về họ và hoàn cảnh lịch sử họ sống, phải kính cẩn thâm nhập từng hành vi, cử chỉ và sở học của họ. Có mắc mỏ quá chăng khi mà người xưa đã sống và trứ tác như thế. Đây là công việc xét người, xét việc để rút ra những bài học cho hiện tại và tương lai, nên không thể làm bừa, làm ẩu để kiếm chút danh hảo.

Ông có thể nói một số kinh nghiệm của ông về phương pháp làm việc để tiếp cận các nguồn tài liệu một các chính xác và hiệu quả nhất?

Một trong những tác phẩm biên soạn quan trọng của nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy.

Người cầm bút cần tích lũy cho thâm hậu. Không nên bằng lòng với những công việc dễ dãi. Nên tìm việc khó mà làm. Trong sử học lại càng phải dày công nghiên cứu, đào sâu. Phải biết giới hạn tầm nhìn, tầm nghĩ của mình vào một vùng địa lý, lịch sử cụ thể, không nên viết tràn lan.
 
Tôi có thể viết được những vấn đề văn hóa và lịch sử của Việt Nam, nhưng tôi tự khoanh vùng Quảng Nam là quê hương mình để hiểu cặn kẽ hơn, thấu đáo hơn, viết cái gì mình biết rõ nhất, nắm chắc nhất, may ra tránh được nhiều sai lầm đáng tiếc. Cứ làm việc, cứ suy ngẫm từ một sự kiện nhỏ đến những sự cố lớn xảy ra trên mảnh đất thân thương, kết quả nỗ lực sẽ đưa tên tuổi, uy tín cho ngòi bút. Danh vọng phải có được bằng tự lực, tư duy độc lập, âm thầm nghiên cứu chứ không phải bằng la lối, rập khuôn dựa vào hào quang của các đại danh mà có được.

Lịch sử văn hóa và học thuật của Việt Nam nói chung và Quảng Nam nói riêng được tích lũy trong thư tịch chữ Hán và Nôm. Người Pháp, khi tiến hành xâm chiếm và khai thác thuộc địa, họ dùng chữ Quốc ngữ và chữ Pháp để đẩy lùi chữ Nho (Hán) và chữ Nôm trong chiến lược vô dụng hóa nền học thuật và văn hóa bản xứ. Nhưng họ có đủ thông minh thừa hiểu rằng cái gia tài truyền thống Việt Nam cần được đào sâu nghiên cứu để nhân đó áp dụng nhiều chính sách cai trị thích hợp, tránh làm đảo lộn một xã hội vốn đã ổn định bằng bề dày lịch sử và văn hiến.
 
Trường Viễn Đông Bác cổ, Hội nghiên cứu Đông Dương, Hội Đô Thành hiếu cổ, được mở ra tại 3 miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam, tận dụng các tú tài, cử nhân Hán học lỡ thời ngồi dịch cái khối lượng chữ Hán và chữ Nôm của truyền thống bản địa, biên dịch thành công trình chữ Pháp hoặc chữ quốc ngữ. Người học thời nay muốn nghiên cứu nghiêm túc, bài bản không thể không gia công học và đọc Hán Nôm và chữ Pháp. Nếu không được như thế thì chỉ làm cái việc sao chép biên tập lại chứ không phải sưu tầm, nghiên cứu.

Ông có dự định bắt tay thực hiện một công trình nào thời gian đến không?

Hiện tại, sức khỏe suy giảm nhiều, đã 3 lần nhập viện vì thiếu máu nên những dự định đành gác qua một bên. Bộ sách “Quảng Nam & những vấn đề sử học” phải được hoàn thành để trang trải, giải quyết bao nhiêu vấn đề của lịch sử và văn học một vùng đất được mệnh danh “bàn đạp Nam tiến”. Phần II của sách “Trương Vĩnh Ký” cũng phải được hoàn thành .

Một vài lời khuyên của ông đối với thế hệ trẻ, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử.

Tôi từng dặn lòng bằng những lời vàng ngọc trong sách Luận ngữ: “Đừng lo người không biết đến mình. Chỉ sợ mình có làm gì ra trò để được người biết đến hay không. Nhưng nếu không ai biết tới mình mà mình không hờn giận thì chẳng cũng là thái độ quân tử ư?”.

Xin cảm ơn ông. Chúc ông sức khỏe để tiếp tục đóng góp thêm nhiều công trình mới

 
Tác phẩm đã in:

- Trương Vĩnh Ký, cuốn sổ bình sanh. NXB Nam Sơn Sài Gòn 1974. NXB Văn học Hà Nội 2004.

- Phong trào Nghĩa Hội Quảng Nam. NXB Đà Nẵng 1996.

- Trần Quý Cáp, chí sĩ Duy tân Việt Nam đầu thế kỷ XX. NXB Đà Nẵng 1995.

- Quảng Nam & những vấn đề sử học, NXB Văn hóa 2006. Cùng những tác phẩm dịch khác đã xuất bản; những công trình đã tập hợp nhưng chưa ấn hành.

 

TRẦN TRUNG SÁNG (thực hiện)

;
.
.
.
.
.