.

Thái Phiên – nhà lãnh tụ trọng yếu của Cuộc khởi nghĩa Duy Tân năm 1916

Thái Phiên là con trai duy nhất của ông Thái Duy Tân và bà Lê Thị Lý trú tại làng Nghi An (nay thuộc phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng). Đứng trước cảnh nước mất nhà tan, phải chứng kiến cảnh thực dân Pháp ra sức đàn áp nhân dân, bắt bớ giam cầm hàng loạt các sĩ phu từng tham gia phong trào chống thuế 1908, Thái Phiên nung nấu trong mình ý chí: đánh đổ thực dân Pháp, thành lập một nước Việt Nam tự do, dân chủ. Chính vì thế nên ông nhanh chóng tham gia tổ chức “Việt Nam quang phục hội” do Phan Bội Châu khởi xướng.

Năm 1912, Thái Phiên gặp Tú tài Lê Ngung, một nhà yêu nước ở tỉnh Quảng Ngãi có chân trong tổ chức “Việt Nam quang phục hội”, để bàn việc chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ nổi dậy đánh đổ thực dân Pháp. Năm 1915, “Việt Nam quang phục hội” tổ chức Đại hội lần đầu tại Huế để bàn việc khởi nghĩa, lúc này chí sĩ Trần Cao Vân vừa mới bị đày từ Côn Đảo về, cũng tình nguyện tham gia. Tuy nhiên, do chưa liên hệ được với vua Duy Tân (tức Nguyễn Phúc Vĩnh San), để tạo dựng ngọn cờ cho đại sự, nên Thái Phiên và Trần Cao Vân đề nghị hoãn kế hoạch khởi nghĩa. Thái Phiên tự mình đề xướng cùng Trần Cao Vân lãnh trọng trách gặp gỡ, liên hệ với vua Duy Tân - một nhiệm vụ rất nguy hiểm, bởi vì vị vua yêu nước Duy Tân lúc này đang bị mật thám Pháp kiểm soát chặt chẽ tại Huế.

Để tiếp xúc được vua Duy Tân, Thái Phiên và Trần Cao Vân đã vận động người lái xe cho vua thôi việc và đưa người đồng chí của mình là Phạm Hữu Khánh vào thay. Chính Khánh là người liên lạc, làm cầu nối giữa vua Duy Tân và Thái Phiên, Trần Cao Vân sau đó. Lúc này, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ Nhất nổ ra, nước Pháp đang sa lầy vì cuộc chiến, nên hơn lúc nào hết, các yếu nhân của phong trào như Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê Ngung... quyết định phát động khởi nghĩa đánh đổ thực dân Pháp.

Tháng Giêng năm 1916, Thái Phiên triệu tập một cuộc họp tại nhà ông Lâm Nhĩ ở làng Cẩm Toại (nay thuộc xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang) để triển khai kế hoạch khởi nghĩa. Mục tiêu khởi nghĩa được các ông đưa ra là: đánh đổ thực dân Pháp, xây dựng Việt Nam thành nước“Việt Nam cộng hòa dân quốc”. Tháng 2-1916, “Việt Nam quang phục hội” tiến hành Đại hội tại Huế gồm các yếu nhân quan trọng như: Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Thành Tài (ở Quảng Nam), Lê Ngung, Nguyễn Thụy (Quảng Ngãi), Nguyễn Chánh (Quảng Bình), Đoàn Bảng(Thừa Thiên Huế)... để bàn việc chuẩn bị khởi nghĩa. Đại hội thành lập Uy ban khởi nghĩa do Thái Phiên đứng đầu, kiêm Tổng chỉ huy quân sự. Kế hoạch nổi dậy như sau:

Thái Phiên và Trần Cao Vân trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tại kinh đô Huế. Theo đó, đúng 1 giờ sáng ngày khởi nghĩa, quân khởi nghĩa sẽ đốt lửa trên đồi Thiên Mụ để báo hiệu cho các cánh quân đồng loạt nổi dậy. Lính lệ ở Trường Thi sẽ hợp với quân một sĩ quan người Đức chỉ huy đồn Mang Cá, tiến hành đánh chiếm Tòa Khâm và trụ sở các bộ. Súng thần công tại kinh thành sẽ được bắn, để đúng 1 giờ sáng ngày 3-5-1916 thì trên đỉnh đèo Hải Vân sẽ được nổi lửa phát tín hiệu truyền đi.

Tại Quảng Ngãi, Lê Ngung, Phạm Cao Chẩm, Nguyễn Công Phương chỉ huy khởi nghĩa và có nhiệm vụ liên hệ với Bình Định, KonTum... Nếu cuộc khởi nghĩa thất bại thì nghĩa quân ở Quảng Nam sẽ rút lên núi Bà Nà, Quảng Ngãi sẽ rút lên Gia Vút để lập căn cứ kháng chiến lâu dài.

Tại Quảng Nam, kế hoạch khởi nghĩa được phân công như sau:

- Các ông: Đỗ Tự, Lê Văn Bính (tức tú Bính), Ông Văn Long (người làng Phong Bắc thuộc xã Hòa Thọ hiện nay) nắm nghĩa quân đánh thành La Qua ở Quảng Nam và liên hệ với 1.500 lính thợ bị Pháp bắt đi lính chờ xuống tàu sang Pháp đang tập trung ở cửa Hàn, Đà Nẵng.

- Các ông Lâm Nhĩ (ở làng Cẩm Toại, Hòa Phong, Hòa Vang), Trần Ngọc Đạm ở Khuê Trung lãnh trách nhiệm đánh chiến cửa Hàn và tiếp nhận vũ khí của Đức.

- Nhân dân 2 làng Nghi An, Phong Lệ đốn cây, chặn đường tiến quân cứu viện của Pháp từ Hội An kéo ra. Công nhân các đồn điền Hòa An, Tùng Sơn cũng được vận động tham gia cuộc khởi nghĩa này.

Tuy nhiên, do kế hoạch tiếp xúc vua Duy Tân vẫn chưa có cơ hội thực hiện nên cuộc khởi nghĩa tiếp tục bị hoãn. May thay, ngày 14-4-1916, nhân lúc vua Duy Tân đi duyệt binh ở Trường Thi, Phạm Hữu Khánh đã tìm cách đưa nhà vua đến chỗ gặp Thái Phiên, Trần Cao Vân. Do mưu đồ việc lớn, Thái Phiên và Trần Cao Vân đã bất chấp nguy hiểm, giả làm người câu cá trên sông Ngự Hà để vào Hoàng thành gặp vua.

Duyệt binh xong, nhà vua thả bộ theo sông Ngự Hà rồi tạt vào Hậu Hồ để gặp 2 ông bàn việc đại sự. Sau cuộc gặp mặt đó, mọi chỉ thị đưa ra của tổ chức “Việt Nam quang phục hội” đều do một mình Thái Phiên thảo ra và đều được ký tên là “Cô Đà”, tức bí danh của ông lúc bấy giờ. Chính Thái Phiên đã thảo chương trình, mật chiếu, bài hịch của cuộc khởi nghĩa rồi cho người đưa vua Duy Tân xem, việc làm đó cho thấy ông là một yếu nhân hết sức quan trọng của phong trào này.

Công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa đang được các tỉnh chuẩn bị rất khẩn trương thì cơ mưu bị lộ. Số là, Võ An, người ở phủ Tư Nghĩa, Quảng Ngãi là đảng viên của tổ chức “Việt Nam quang phục hội”, trước khi bị đổi đi Phú Yên, y đã dặn em là Võ Huệ rằng: “Đến ngày 1 tháng 4 Bính Thìn (tức ngày 3-5-1916), em hãy về quê và xa lánh công đường vì bữa đó tất có biến!”. Từ đó, Huệ bị An sát Quảng Ngãi là Phạm Liệu bắt tra khảo và Huệ đã khai ra kế hoạch khởi nghĩa. Phạm Liệu bèn tức tốc báo cho Khâm sứ Pháp là Chartles tại Huế biết cái tin động trời đó. Vì thế, thực dân Pháp và phong kiến Nam triều nhanh chóng tìm cách dập tắt phong trào này.

Giữa đêm ngày 3-5-1916, theo kế hoạch đã định, vua Duy Tân “chân đi đất, đầu chít cái khăn đen, mình mặc áo cụt đỏ sẫm và quần vải trắng” được bí mật đưa ra khỏi Hoàng thành để đến Nha Thương Bạc gặp Thái Phiên, Trần Cao Vân. Tại đây, nhà vua được 2 ông đưa xuống thuyền xuôi về làng Hà Trung ở Phú Vang (Huế). Sau khi đưa vua đến Bến Ngự, Thái Phiên nghe Nguyễn Quang Siêu báo: “Khi đưa vua ra đến bến Thương Bạc thì tôi gặp Trần Quang Trứ hớt hải cho chèo thuyền qua Tòa Khâm!”. Thái Phiên giật mình nhìn Trần Cao Vân và hỏi: “Trứ được giao nhiệm vụ phối hợp hành động ở trấn bình đài, tại sao hắn lại qua Toà Khâm giờ này làm gì?”. Đến đây, các lãnh tụ phong trào Duy Tân đã có dự cảm rằng: kế hoạch nổi dậy đã bị bại lộ.

Đợi đến 3 giờ sáng mà súng hiệu vẫn chưa nổ, biết cơ mưu bị lộ, Thái Phiên, Trần Cao Vân bèn đưa vua Duy Tân rời Hà Trung, theo đường núi để vào núi Bà Nà như đã định. Khi vua tôi đi ngược lên vùng núi Tây Nam Huế và trọ lại tại chùa Ngũ Phong thuộc xóm Ngũ Tây, thôn An Cựu, thì tại đây bọn mật thám Pháp, Đổng lý văn phòng Le Font, Khâm sứ Chartles và quan quân Nam triều cùng lính Pháp vây kín khắp sân chùa. Vua Duy Tân, Thái Phiên, Trần Cao Vân và những người đồng chí của các ông đều bị bắt giữ.

Bản án kết tội Thái Phiên và Trần Cao Vân do phong kiến Nam triều lập có đoạn: “Ban đầu buông câu ở Hậu Hồ, tự thảo chiếu văn, kế đến neo thuyền ở bến Thương Bạc, chở rước nhà vua, mời vua dùng cơm lạt ở làng Hà Trung, ăn cháo gà ở núi Ngũ Phong, mình rồng phải chịu dãi dầu sương gió, tội lỗi này đều do bọn kia (tức Trần Cao Vân, Thái Phiên) tạo ra”. Bản án đã làm xong, Tòa Khâm cho người đến tận Lao Hộ để chụp hình các tử tội: Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thái Đề, Nguyễn Quang Siêu làm hồ sơ lưu trữ. Trước khi chết, Thái Phiên và Trần Cao Vân viết một bản trần tình khẳng khái nhận hết tội lỗi về mình và đề nghị thực dân Pháp tha tội chết cho vị vua trẻ Duy Tân. Bài trần tình có câu:

“Trung là ai? Nghĩa là ai? Cân đai võng lọng là ai? Thà để cô thần tử biệt!
Trời còn đó! Đất còn đó! Xã tắc sơn hà còn đó! Mong cho Thánh Thượng sinh toàn!”.

Ngày 17-5-1916, Thái Phiên và các đồng chí của ông bị thực dân Pháp áp giải đến pháp trường An Hòa (Huế) và đều bị chém chết. Thi hài của họ đều bị vùi chung một hố. Cái chết của các yếu nhân trong phong trào Duy Tân đã thể hiện nghĩa khí cương cường của các sĩ phu yêu nước thời bấy giờ và tên tuổi của Thái Phiên, Trần Cao Vân đã trở nên bất tử trong lịch sử chống xâm lăng của dân tộc ta. Đúng như vua Duy Tân (bị lưu đày) sau này đã nói: “Nếu như chúng tôi không có nghĩa cử cầm đầu cuộc vận động ấy thì dưới con mắt của dân tộc tôi, tôi được coi như một kẻ hèn nhát, phản bội xứ sở, phản bội cha ông tôi”.

Lưu Anh Rô

;
.
.
.
.
.