.

Doanh nghiệp sẵn sàng nộp phạt để né bảo hiểm xã hội

.

(ĐNĐT) - Với mức xử phạt hành chính cao nhất là 20 triệu đồng thì doanh nghiệp (DN) sẵn sàng nộp phạt để không thực hiện đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) cho người lao động (NLĐ). DN đối phó với cơ quan BHXH bằng danh sách NLĐ tham gia BHXH và mức lương thấp hơn thực tế, trong khi NLĐ sợ mất việc làm nên không dám đòi hỏi người sử dụng lao động.

Đây là thực trạng tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH được BHXH Đà Nẵng báo cáo với Đoàn giám sát của Quốc Hội do ông Đặng Như Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội làm trưởng đoàn, trong buổi làm việc hôm 12-3. 

Tìm mọi cách né BHXH

Theo phản ánh của BHXH Đà Nẵng, nhiều đơn vị sử dụng lao động tìm mọi cách né tham gia BHXH hoặc tham gia cầm chừng. DN sẵn sàng nộp phạt ở mức xử phạt hành chính cao nhất hiện nay là 20 triệu đồng để không tham gia BHXH. Có đơn vị vẫn trích phần đóng BHXH từ lương của NLĐ nhưng không đem nộp mà chiếm dụng để sử dụng vào mục đích khác. Hiện nay, có 1.119 tổ chức, DN, cơ quan nợ 58,41 tỷ đồng tiền BHXH, trong đó nợ không có khả năng thu hồi gần 13,5 tỉ đồng.

 Doanh nghiệp tìm mọi cách để né BHXH

Nhiều đơn vị sử lao động đối phó với BHXH bằng nhiều hình thức: Chỉ đóng BHXH cho một số ít NLĐ làm việc ở bộ phận hành chính. Có DN (Công ty Giai Nông) trên địa bàn quận Hải Châu sử dụng gần 450 lao động nhưng chỉ đóng BHXH cho 50 người. Một bệnh viện tư nhân (Bệnh viện Bình Dân) trên địa bàn quận Thanh Khê chỉ đăng ký đóng BHXH cho bác sĩ với mức lương hàng tháng 800 ngàn đồng.

Tình trạng mức lương ghi trên hợp đồng lao động (để tham gia BHXH) thấp hơn mức lương thực nhận của NLĐ ở DN ngoài quốc doanh là rất phổ biến. Có DN đối phó với Luật Lao động (quy định lao động hợp đồng từ 3 tháng trở lên phải tham gia BHXH) bằng cách ký hợp đồng với NLĐ chỉ 80 ngày, cho nghỉ 10 ngày rồi hợp đồng trở lại. Cứ thế quay lượt hợp đồng lao động, vừa lách luật, vừa né đóng BHXH.

Đại diện Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) thành phố tham gia buổi làm việc phản ánh: Là tổ chức bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho NLĐ nhưng LĐLĐ thành phố chỉ có thể kiểm tra việc chấp hành pháp luật về lao động ở những DN có tổ chức công đoàn cơ sở trực thuộc LĐLĐ thành phố. Còn đối với những DN đóng trên địa bàn có tổ chức công đoàn thuộc công đoàn ngành thì LĐLĐ thành phố chỉ biết “đứng xa mà nhìn” chứ không kiến nghị được gì.

Đa số các DN ngoài quốc doanh trì hoãn hoặc không muốn thành lập tổ chức công đoàn khi LĐLĐ thành phố đến tuyên truyền vận động. Không có tổ chức công đoàn cơ sở thì rất khó giám sát, kiến nghị DN thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách cho NLĐ theo quy định pháp luật, trong đó có việc đóng BHXH cho NLĐ.

Đổi mới cơ chế quản lý

Ông Lợi cho rằng, có một nghịch lý trong cơ chế quản lý hiện nay: Nhiều cơ quan nhà nước có trách nhiệm liên quan đến việc quản lý lao động (ngành Kế hoạch - Đầu tư, Thuế, Thống kê, LĐ-TB&XH...)nhưng chịu trách nhiệm cụ thể lại không có ai cả. Ông cho biết, khi làm việc với BHXH tỉnh Vĩnh Phúc, cơ quan thuế khẳng định họ nắm rất chắc chắn số lượng lao động của DN và mức lương của từng người. Đây là bảng lương để quyết toán thuế, họ phải khai báo đúng khoản trả lương để không phải chịu thuế cao. Trong khi đó, cơ quan BHXH không nắm được chính xác số lượng lao động và mức lương thật của NLĐ. Rõ ràng, thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa ngành BHXH với các ngành có liên quan.

BHXH Đà Nẵng cũng nêu thực trạng cơ quan này đã dựa vào thông tin và số liệu do Sở Kế hoạch - Đầu tư và Cục Thuế cung cấp nhưng khi đến tiếp xúc với DN thì phát hiện DN này không có trụ sở tại địa chỉ như đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh. Mặt khác, chế tài xử phạt hành chính cao nhất là 20 triệu đồng thì DN sẵn nộp phạt để không thực hiện đóng BHXH, còn NLĐ sợ mất việc làm nên không dám đòi hỏi người sử dụng lao động.

BHXH thành phố đề nghị cần có chế tài đủ mạnh để buộc người sử dụng lao động phải tham gia BHXH cho NLĐ, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh, cơ sở y tế, giáo dục ngoài công lập. Đề nghị sửa Luật BHXH quy định việc thu BHXH phải dựa trên bảng lương đóng thuế, DN không đóng BHXH hoặc nợ phải giải quyết chế độ, chính sách cho NLĐ và phải có cơ quan giám sát việc này. Tại Khoản 4, Điều 138 Luật BHXH cần bổ sung thêm nội dung: Tổ chức BHXH, NLĐ tham gia BHXH có quyền khởi kiện tại tòa án khi người sử dụng lao động vi phạm pháp luật về BHXH. Đề nghị bổ sung chỉ tiêu điều tra lao động có hợp đồng từ 3 tháng trở lên trong các cuộc điều tra hàng năm về lao động do Tổng Cục Thống kê và Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì để làm cơ sở cho việc quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.

Khó xác định số NLĐ chưa tham gia BHXH

Theo số liệu báo cáo của BHXH Đà Nẵng: Năm 2008, số cơ quan, đơn vị, DN phải đóng BHXH thực tế quản lý được là 2.571 đơn vị, chiếm tỉ lệ 50,8% trong tổng số tổ chức sử dụng lao động phải tham gia BHXH bắt buộc là 5.415 đơn vị và số NLĐ được đóng BHXH là 140.558 người, chiếm tỉ lệ 69%.

Năm 2009, số NLĐ được đóng BHXH là 144.986 người, chiếm 70,5%. Tuy nhiên, theo BHXH Đà Nẵng, số liệu về số NLĐ phải tham gia BHXH mà cơ quan BHXH Đà Nẵng quản lý được chỉ là con số tương đối.

Theo ông Lê Anh Nhân, Phó Giám đốc BHXH Đà Nẵng, rất khó để xác định đúng, đầy đủ số NLĐ chưa tham gia BHXH để đưa vào quản lý. Cơ quan BHXH tham khảo số liệu về lao động đăng ký của DN tại Cục Thuế, Ban Quản lý các Khu công nghiệp và Chế xuất, Cục Thống kê, sở LĐ-TB&XH... nhưng số liệu của các cơ quan này “đá” nhau. Ông Đặng Như Lợi cũng đồng tình: “Làm việc với BHXH ở các địa phương, tôi chưa thấy ai trả lời rằng đã xác định đúng và quản lý hết số lượng NLĐ phải tham gia BHXH, kể cả việc xác định chính xác mức lương để thu BHXH”.

Bài và ảnh: Sơn Trung

;
.
.
.
.
.