.
Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII

Cần quy định cụ thể việc bảo vệ người tố cáo

.

* Hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố

Sáng ngày 18-11-2010, dưới sự chủ trì của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, Quốc hội tiến hành thảo luận tại hội trường về dự thảo Luật Tố cáo. Đại biểu Quốc hội chuyên trách thành phố Đà Nẵng Nguyễn Thị Kim Thúy đã tham gia phát biểu ý kiến.

Mô tả ảnh.
Đại biểu Quốc hội TP. Đà Nẵng Nguyễn Thị Kim Thúy phát biểu ý kiến. Ảnh: HỮU HOA

Về thời hiệu tố cáo, ĐB Kim Thúy cho rằng, dự thảo luật mới chỉ quy định thời hiệu xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo tại Điều 26. Riêng trường hợp tiếp nhận, xử lý tố cáo “có nội dung không rõ, xảy ra từ lâu” quy định tại khoản 4, Điều 24 dự thảo luật chưa rõ, vì khái niệm “từ lâu” không xác định được thời gian. ĐB đề nghị nên quy định thời hiệu tố cáo mà không cần quy định thời hiệu xử lý, vì việc tố cáo không chỉ là quyền mà còn là trách nhiệm của công dân đối với xã hội, tố cáo góp phần ngăn chặn và phòng ngừa vi phạm pháp luật.

Theo ĐB, thực tế cho thấy, số lượng đơn, thư thường gia tăng đột biến trong những dịp chuẩn bị bầu cử hay Đại hội, làm mất ổn định tình hình chính trị và quá tải cho cá nhân, cơ quan có thẩm quyền xử lý nhưng đa số vụ việc bị tố cáo đã xảy ra khá lâu. Vậy động cơ, mục đích của việc tố cáo này là gì, nếu như không phải xuất phát từ động cơ cá nhân. ĐB lập luận, nếu những người tố cáo thật sự có trách nhiệm với xã hội thì họ đã phải tố cáo ngay từ khi phát hiện ra hành vi vi phạm chứ không phải ẩn mình chờ đến dịp bầu cử hay Đại hội mới tố cáo. ĐB cho rằng, Bộ luật Hình sự có tội danh không tố giác tội phạm, Bộ luật Dân sự có quy định thời hiệu khởi kiện, do đó Luật Tố cáo cũng cần phải có quy định về thời hiệu tố cáo, để hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả do hành vi vi phạm gây ra.

Theo ĐB, cũng một vị lãnh đạo đó nếu sớm phát hiện ra hành vi vi phạm thì có thể xử lý sớm để ngăn ngừa họ tiếp tục vi phạm và tất nhiên hậu quả xảy ra sẽ ít hơn rất nhiều. Mặt khác, nếu không quy định thời hiệu tố cáo thì cũng không nên quy định thời hiệu xử lý. Bởi vì khi công dân đã tố cáo và cơ quan có thẩm quyền đã phát hiện có hành vi vi phạm thì phải xử lý, nếu không xử lý sẽ tạo sự bất bình trong dư luận, gây tâm lý bức xúc cho người tố cáo và làm giảm lòng tin của nhân dân vào pháp luật. Do đó, ĐB đề nghị luật cần quy định thời hiệu tố cáo là 3 năm, kể từ khi người tố cáo phát hiện ra hành vi vi phạm.

Về thẩm quyền giải quyết và điểm dừng trong tố cáo, ĐB cho rằng, dự thảo luật chưa quy định điểm dừng trong giải quyết tố cáo sẽ làm cho việc tố cáo kéo dài và không biết bao giờ mới chấm dứt. Theo ĐB, việc giải quyết tố cáo cần qua hai cấp để bảo đảm khách quan và cũng để hạn chế việc tố cáo kéo dài, vượt cấp. Thông thường, tâm lý chung của người tố cáo là không mấy tin tưởng vào cấp giải quyết lần đầu vì họ cho rằng người vi phạm và người giải quyết tố cáo cùng một cơ quan, người vi phạm lại là cấp dưới trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết thì có thể bao che cho nhau cho nên họ tiếp tục tố cáo lên cấp trên.

Khoản 3, Điều 31 dự thảo quy định, khi người tố cáo có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo không đúng pháp luật thì thủ trưởng cơ quan cấp trên có trách nhiệm xem xét, giải quyết lại. Nhưng theo ĐB, trên thực tế đòi hỏi điều này là quá khó khăn cho người tố cáo và cho dù không có căn cứ thì họ vẫn tiếp tục tố cáo vì tin tưởng cơ quan cấp trên sẽ giải quyết khách quan hơn. Tuy luật không quy định nhưng thủ trưởng cơ quan cấp trên vẫn phải xem xét để trả lời. Do đó, ĐB đề nghị luật nên quy định theo hướng, nếu không đồng ý với kết luận của người có thẩm quyền giải quyết lần đầu thì người tố cáo có quyền tố cáo lên thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người giải quyết lần đầu và kết luận giải quyết của thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp là kết luận cuối cùng. Quy định như vậy vừa bảo đảm tính khách quan, vừa tạo điểm dừng cần thiết cho việc tố cáo.

Về vấn đề bảo vệ người tố cáo, theo ĐB thì đối tượng bị tố cáo rất rộng, bao gồm bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào của bất kỳ ai. So với hành vi bị khiếu nại thì tính nguy hiểm của hành vi bị tố cáo thường ở mức độ cao hơn, nhưng tính công khai của nó lại thấp hơn bởi sự che đậy, ngụy trang tinh vi của người bị tố cáo. Còn mục đích của người đi tố cáo là xuất phát từ việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chính mình mà cũng có thể là vì trách nhiệm với Nhà nước, với tập thể, với cộng đồng hoặc do nghĩa vụ phải tố cáo. ĐB cho rằng, thực tế cho thấy chủ thể tố cáo từ người dân bình thường cho đến người có chức, có quyền dù động cơ, mục đích tố cáo khác nhau nhưng đều là những người yếu thế, dễ bị rơi vào tình thế bất lợi, dễ bị người bị tố cáo trù dập, trả thù nên họ đều có chung tâm trạng là bất an, lo lắng và luôn đấu tranh tư tưởng khi thực hiện hành vi tố cáo, mặc dù quyền này đã được Hiến pháp và pháp luật cho phép.

Mặt khác theo ĐB, qua xử lý các vụ việc của cơ quan chức năng trong thời gian qua cho thấy phần lớn việc phát hiện vi phạm là do đài, báo đưa tin và những công dân dũng cảm tố cáo chứ bản thân nội bộ cơ quan phát hiện là rất hiếm. Có thể nói nguyên nhân chủ yếu của thực tế này chính là do người tố cáo chưa được bảo vệ. Vì vậy, ĐB cho rằng điều quan trọng là phải bảo vệ được người tố cáo thì mới khuyến khích tố cáo. Nếu thực sự bảo vệ được người tố cáo thì không xem xét, giải quyết tố cáo không rõ tên, địa chỉ người tố cáo.

Theo pháp luật quy định, người tố cáo được bảo vệ, nhưng thực tế ai sẽ bảo vệ họ, bảo vệ như thế nào, bảo vệ bằng cách gì cần phải tìm câu trả lời. ĐB cho rằng, nếu chỉ quy định tại 4 điều của Chương V dự thảo luật thì khó mà bảo vệ được người tố cáo trong thực tế, vì chưa tạo cơ chế hữu hiệu để bảo vệ người tố cáo, để người bị tố cáo không thể biết được hoặc có biết được cũng không thể trù dập, trả thù họ được. Do đó, ĐB đề nghị cần rà soát, thiết kế lại chương này sao cho cụ thể hơn và mang tính khả thi, chí ít phải có những quy định tối thiểu về biện pháp bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tố cáo và trong những trường hợp cần thiết phải bảo vệ cả người thân của họ gồm vợ hoặc chồng, con, cha mẹ, bảo vệ cả đối tượng là người cung cấp thông tin cho người tố cáo.

Theo ĐB thì người có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo trước hết chính là người tiếp nhận tố cáo, rồi đến chính quyền các cấp... chứ không phải chỉ dừng lại ở cơ quan công an. Vì để bảo vệ người tố cáo, có trường hợp sẽ phải sử dụng lực lượng phối hợp của nhiều ngành, nhiều tổ chức, thậm chí cả những biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn. ĐB đề nghị luật cần quy định cụ thể một số biện pháp đặc biệt khẩn cấp tạm thời để áp dụng trong trường hợp cấp thiết, đồng thời cần quan tâm về phương tiện, cơ sở vật chất sử dụng để bảo vệ người tố cáo... 

PHẠM HỮU HOA

;
.
.
.
.
.