(Trích phát biểu của đồng chí Trần Văn Minh, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch UBND thành phố)
Nhiệm kỳ 2004-2011 của HĐND và UBND thành phố diễn ra trong bối cảnh sự nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng; kinh tế-xã hội thành phố phát triển, chính trị ổn định, quan hệ đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế mở rộng; thế và lực mới của thành phố ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, tình hình thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp; nhiều thách thức mới nảy sinh trong quá trình phát triển; đặc biệt, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, gây khó khăn lớn đối với phát triển kinh tế và đời sống nhân dân thành phố.
Trong bối cảnh đó, trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các nhiệm kỳ trước, truyền thống đoàn kết nhất trí, sự đồng thuận cao trong xã hội, sự nỗ lực phấn đấu của các tầng lớp nhân dân, cùng với sự quan tâm chỉ đạo của các Bộ, ngành Trung ương, sự lãnh đạo của Thành ủy, sự giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội, HĐND thành phố, sự phối hợp của Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố và của các đoàn thể chính trị-xã hội, sự nỗ lực cố gắng của các cấp chính quyền, tập thể UBND thành phố đã nỗ lực triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết HĐND thành phố đã đề ra và đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh, đặc biệt là sự phối hợp thực hiện Luật Tổ chức HĐND và UBND.
Tổng sản phẩm nội địa (GDP) ước tăng bình quân 11,6%/năm. GDP bình quân đầu người nâng lên rõ rệt, năm 2010 ước đạt 33,2 triệu đồng (tương đương 2.016 USD), gấp 2,7 lần so với năm 2004, gấp 1,7 lần so với mức bình quân cả nước. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, phù hợp với Nghị quyết Đại hội XIX và Nghị quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị. Tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ trong GDP năm 2010 ước đạt 50,5%; công nghiệp - xây dựng: 46,5% và nông nghiệp: 3,0%. Cơ cấu lao động chuyển biến tích cực, đến năm 2010, tỷ lệ lao động nông nghiệp (thủy sản-nông-lâm) ước còn 9,6%, lao động công nghiệp: 35,1%, dịch vụ: 55,3%. Các ngành dịch vụ phát triển mạnh về quy mô và đa dạng về loại hình, đạt tốc độ tăng trưởng 16,1%/năm, góp phần thúc đẩy tăng trưởng chung của kinh tế thành phố. Hệ thống kết cấu hạ tầng du lịch được đầu tư đồng bộ, hoàn thiện và đưa vào sử dụng các cơ sở du lịch lớn, góp phần nâng dần sức hấp dẫn, từng bước trở thành ngành kinh tế quan trọng. Hạ tầng thương mại được đầu tư đồng bộ, hiện đại.
Trong nhiệm kỳ qua, chủ trương xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị tiếp tục được đầu tư phát triển đồng bộ. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhất là về giao thông, cấp điện, cấp thoát nước, thu gom và xử lý rác thải, nước thải... phát triển đáng kể. Công tác đền bù, giải tỏa, tái định cư cho dân được thực hiện đồng bộ, nền nếp và hiệu quả hơn. Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản được chú trọng, đầu tư có trọng điểm, phù hợp với quy hoạch. Không gian đô thị được mở rộng đáng kể, tỷ lệ dân cư thành thị chiếm 86,83%. Công tác bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên, nhất là quản lý đất đai, tài nguyên thiên nhiên, mặt nước được tăng cường. Thành phố đã tập trung giải quyết cơ bản các “điểm nóng” về môi trường; xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, xây dựng và cải thiện hệ thống xử lý nước thải ở các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ban hành nhiều chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư; triển khai các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư. Đến giữa năm 2010, thành phố có trên 12.813 doanh nghiệp dân doanh, tổng vốn đăng ký đạt 35 ngàn tỷ đồng, góp phần tăng cường nguồn lực tài chính cho các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội thành phố.
Tổng thu NSNN trên địa bàn ước đạt 56.480 tỷ đồng, tăng bình quân 14,6%/năm, năm 2010 tăng gấp 1,5 lần so với năm 2006; trong đó, thu nội địa tăng 10,1%/năm, thu thuế xuất nhập khẩu tăng 9,9%/năm; tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 50.330 tỷ đồng, tăng bình quân 23,9%/năm.
Giáo dục và đào tạo được đầu tư phát triển cả về số lượng và chất lượng. 100% phường, xã duy trì chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học cơ sở đúng độ tuổi; 94,64% phường, xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục bậc trung học. Đội ngũ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn ngày càng tăng. Hoạt động khoa học và công nghệ có chuyển biến tích cực và đúng hướng; nguồn lực về khoa học và công nghệ được đầu tư tăng cường. Một số lĩnh vực công nghệ cao, như công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học... được chú trọng đầu tư và phát triển khá; việc triển khai ứng dụng và chuyển giao công nghệ có tiến bộ.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản, thể dục-thể thao chuyển biến tích cực. Thành phố chú trọng bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể; đầu tư xây dựng nhiều công trình văn hóa lớn; nghiên cứu, phục dựng một số lễ hội dân gian. Hệ thống các thiết chế văn hóa được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” từng bước đi vào chiều sâu.
Hoạt động sáng tạo văn hóa, văn học-nghệ thuật có nhiều chuyển biến tích cực; hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình tiếp tục phát triển. Phong trào thể dục-thể thao quần chúng phát triển trên diện rộng. Thể thao thành tích cao đạt nhiều thành tích mới. Đời sống các đối tượng chính sách và các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết, gắn với từng bước thực hiện công bằng xã hội, tạo chuyển biến rõ nét trong việc giải quyết những vấn đề trọng tâm, xã hội bức xúc. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, xây nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm, cùng với các hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện phát triển rộng khắp.
Chương trình “5 không” được duy trì thực hiện và phát huy kết quả đạt được. Mục tiêu không có hộ đói được thực hiện đồng thời với mục tiêu giảm nghèo, thành phố không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 5,7% cuối năm 2006 ước còn 0% cuối năm 2010 (chuẩn quốc gia) và từ 7,67% cuối năm 2006 ước còn 0,77% cuối năm 2010 (chuẩn cũ của thành phố). Hằng năm, giải quyết việc làm mới cho 3,24 vạn người; tỷ lệ lao động qua đào tạo được nâng cao, đến cuối năm 2009 ước đạt 46,5%; giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị còn 4,9%. Chương trình “3 có” đạt một số kết quả tích cực. Đã cơ bản hoàn thành “xóa nhà tạm” cho hộ nghèo có đất ổn định; đồng thời tích cực triển khai thực hiện Chương trình xây dựng 7.000 căn hộ chung cư cho người thu nhập thấp và xây dựng nhà ở cho học sinh, sinh viên.
Nhiệm vụ quốc phòng-an ninh được tăng cường chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả. Củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Hoàn thành xây dựng các công trình quốc phòng, các khu vực phòng thủ theo kế hoạch. 100% phường, xã, quận, huyện và thành phố tổ chức diễn tập cơ chế đạt kết quả tốt. Thực hiện có hiệu quả chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, nhất là trong xây dựng, thực hiện các quy hoạch, dự án đầu tư.
Chỉ tiêu tuyển chọn, gọi thanh niên nhập ngũ hoàn thành 100% với chất lượng tốt. Các lực lượng vũ trang, các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn phối hợp làm tốt công tác dân vận, xây dựng cơ sở chính trị, giữ vững ổn định từ cơ sở. Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Công tác phòng ngừa, đấu tranh, trấn áp các loại tội phạm có chuyển biến tốt. Giải quyết có hiệu quả các vấn đề phức tạp về an ninh chính trị, khiếu kiện đông người, các vụ đình công, lãn công, gây rối; bảo vệ an toàn các mục tiêu trọng điểm về an ninh quốc gia. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai sâu rộng; kiềm chế và giảm thiểu tai nạn giao thông.
Cải cách hành chính và cải cách thủ tục hành chính đạt được một số kết quả bước đầu khá quan trọng, góp phần đưa thành phố trở thành địa phương dẫn đầu cả nước về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2008, 2009. Việc triển khai thực hiện chủ trương thí điểm không tổ chức HĐND quận, huyện, phường đạt kết quả tích cực. Công tác cán bộ được quan tâm chỉ đạo với nhiều cách làm mới, có tính đột phá và đạt kết quả tích cực; triển khai các Đề án đào tạo cán bộ để chuẩn bị nguồn nhân lực có trình độ cao cho thành phố. Chú trọng bổ nhiệm cán bộ trẻ, cán bộ nữ và thực hiện nghiêm túc chủ trương thí điểm Bí thư Đảng ủy đồng thời là Chủ tịch UBND cùng cấp.
Bên cạnh những mặt đạt được, vẫn còn một số hạn chế như: Kinh tế tăng trưởng khá, nhưng quy mô còn nhỏ, tích lũy còn hạn chế; sức cạnh tranh và hiệu quả trên một số lĩnh vực còn thấp. Công nghiệp chủ yếu vẫn là gia công, sơ chế, giá trị gia tăng thấp. Chưa hình thành các ngành công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, ngang tầm khu vực và quốc tế. Công nghiệp phụ trợ phát triển chậm; sản phẩm chủ lực, sản phẩm đặc trưng còn ít. Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, giải quyết việc làm, nhà ở chưa được nhiều và xây dựng nếp sống văn hóa-văn minh đô thị còn hạn chế, tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp. Công tác xây dựng chính quyền, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện của một số cơ quan chuyên môn còn bất cập. Cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, quy trình giải quyết công việc trên một số lĩnh vực còn chậm, chưa được khắc phục. Một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm hiệu quả chưa cao.
Về chỉ đạo, điều hành, nhiệm kỳ 2004-2011, UBND thành phố đã ban hành quy chế làm việc, xác định rõ trách nhiệm cá nhân, phạm vi nhiệm vụ giải quyết công việc của từng thành viên UBND thành phố. Tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế-xã hội gắn chặt với nhiệm vụ bảo vệ quốc phòng-an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Công tác tổ chức, xây dựng bộ máy các cơ quan chuyên môn được quan tâm kiện toàn, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, điều hành của UBND thành phố, hiệu quả quản lý Nhà nước trên nhiều lĩnh vực được nâng lên. Bộ máy chính quyền các cấp được củng cố. Thực hiện có hiệu quả chủ trương thí điểm mô hình Bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND cấp phường tại 10 địa phương và thí điểm không tổ chức HĐND quận, huyện, phường.
M.H (trích)
(*) Tít bài trích do Báo Đà Nẵng đặt