100 năm trước, Hồ Chí Minh ra nước ngoài là để xem nước Pháp và các nước khác họ làm thế nào, rồi sẽ trở về giúp đồng bào, chứ không phải đi học làm báo. Hành trang Người mang theo là lòng yêu nước thương dân và khát vọng giải phóng đồng bào khỏi gông cùm nô lệ. Trước khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh chủ yếu thực hiện những cuộc hành trình dài ngày từ Pháp qua châu Phi đến Anh và nhiều nước khác. Tại những nơi Người tới, bằng việc quan sát, tìm hiểu và tự đặt ra cho mình nhiều câu hỏi từ thực tế, Hồ Chí Minh càng ngày càng nhận ra bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc.
Báo Thanh Niên do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra số đầu tiên ngày 21 tháng 6 năm 1925. Đây là tờ báo Cách mạng vô sản đầu tiên, mở đầu dòng báo chí Cách mạng Việt Nam. (Ảnh tư liệu) |
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, hoạt động của Hồ Chí Minh đã tiến lên một bước. Người đến Hội nghị Véc-xây cùng nhiều đoàn đại biểu thay mặt cho các dân tộc bị áp bức để đòi độc lập và tự do, trong đó có tự do báo chí. Tự do báo chí và tự do ngôn luận trong Yêu sách của nhân dân An Nam năm 1919 là mốc mở đầu cho hành trình báo chí của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên ở thời điểm đó, nhận thức của Hồ Chí Minh về tự do báo chí cũng chỉ mới là cảm tính mà thôi. Điều quan trọng là từ nhận thức những lời tuyên bố tự do của các nhà chính trị tư bản trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc, Hồ Chí Minh thấy rõ muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Những nhận thức đó đã đánh dấu một giai đoạn mới trong cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh.
Trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên kể lại rằng, lúc bấy giờ ông Nguyễn là một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả vì Tổ quốc, nhưng ông Nguyễn lúc đó “rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là Công hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng”. Người đã tự bỏ tiền ra in những bản Yêu sách tám điểm thành những tờ truyền đơn đem phát trong các cuộc mít-tinh ở Pháp, cho tất cả những Việt kiều và những người Việt đi lính Pháp. Người gửi cả những truyền đơn về Đông Dương. Những hoạt động đó có tác dụng nhất định nhưng không cơ bản và lâu dài. Người bắt đầu suy nghĩ tới hoạt động báo chí. Nhưng hoạt động như thế nào khi “ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết báo Pháp”. Trần Dân Tiên kể lại rằng “nhược điểm về tri thức làm cho ông Nguyễn rất khó chịu. Nhất là khi nhờ ông Phan Văn Trường viết nhưng ông Trường không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói. Vì vậy ông Nguyễn bắt tay vào học làm báo”. Như vậy động cơ làm báo đầu tiên của Hồ Chí Minh là để tuyên truyền cách mạng, tố cáo tội ác thực dân Pháp.
Người đến tòa báo “Dân chúng” do cháu ngoại Các Mác, nghị viên của Quốc hội Pháp, là ông Giăng-Lông-Ghê làm chủ nhiệm. Tờ “Dân chúng” không những đã đăng những lời yêu cầu của bản Yêu sách tám điểm mà Chủ nhiệm tờ báo đó còn khuyến khích Nguyễn Ái Quốc viết bài để làm cho nhân dân Pháp hiểu rõ những sự bất công xảy ra ở Việt Nam. Mặc dù những người Pháp như ông Lông-Ghê hay chủ báo “Đời sống thợ thuyền” rất tốt và rất đáng mến nhưng điều đó chỉ hỗ trợ một phần, giúp Nguyễn Ái Quốc những ngày đầu chập chững trên con đường làm báo. Vấn đề có ý nghĩa quyết định là sự nỗ lực, cố gắng, quyết tâm của bản thân. Xác định rõ mục đích viết báo để làm gì có ý nghĩa hết sức quan trọng đến cuộc đời làm báo của Nguyễn Ái Quốc. Người nhận rõ “tụi tư bản và đế quốc chủ nghĩa nó lấy tôn giáo và văn hóa làm cho dân ngu, lấy phép luật buộc dân lại, lấy sức mạnh làm cho dân sợ, lấy phú quý làm cho dân tham. Nó làm cho dân nghe đến hai chữ cách mệnh thì sợ rùng mình. Vì vậy cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ; phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải bày sách lược cho dân”. Báo chí sẽ góp phần rất quan trọng vào giải quyết những mục đích đó.
Cũng theo Trần Dân Tiên, “ông Nguyễn bắt đầu làm báo rất khó khăn” vì kém tiếng Pháp, thiếu văn Pháp. Người đã vượt qua khó khăn đó bằng cách vừa làm vừa học, tự học và học những nhà báo người Pháp có kinh nghiệm. Người kiên nhẫn bắt đầu từ những động tác nhỏ như viết hai bản, gửi cho tòa báo một bản, giữ lại một bản, sau khi bài được đăng so sánh với bản gốc và sửa những chỗ viết sai. Những bài báo đầu tiên Người viết ngắn, chỉ năm, sáu dòng. Khi thấy viết đã bớt sai, được sự đồng ý của chủ bút, Người viết dài hơn một tí, độ bảy, tám dòng. Dần dần, Người có thể viết cả một cột báo và có khi dài hơn. Cứ như vậy, tùy theo chủ đề, Người có thể viết dài, viết ngắn. Người phải học viết rút ngắn, vì ngắn về dòng nhưng phải bảo đảm về nội dung và chất lượng bài báo. Bằng sự nỗ lực của bản thân trên cơ sở xác định rõ mục đích và cách viết, chỉ một thời gian ngắn, Nguyễn Ái Quốc đã vào làng báo. Từ tháng 8-1919, Người đã có bài trên Báo Nhân đạo và tiếp theo Người viết nhiều bài cho Báo Dân chúng, Đời sống công nhân...
Hội Liên hiệp thuộc địa ra đời tháng 6-1921 tập hợp tất cả những người quê thuộc địa sống trên đất Pháp nhằm mục đích thảo luận và nghiên cứu những vấn đề chính trị và kinh tế của thuộc địa, đi tới sự nghiệp giải phóng bằng sự nỗ lực của chính bản thân những người thuộc địa. Hội quyết định dùng báo chí và ngôn luận để tranh thủ dư luận đồng tình ủng hộ những hoạt động của Hội và cuộc đấu tranh của nhân dân các thuộc địa chống áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân. Nguyễn Ái Quốc, nhân danh đại biểu Đông Dương, làm nghề thợ ảnh, được bầu là một thành viên của Ban Chấp hành. Sau khi Hội thành lập, Ban Chấp hành quyết định xuất bản tờ báo lấy tên Le Paria. Báo ra số 1, ngày 1-4-1922. Số cuối cùng là số 38, tháng 4-1926. Nguyễn Ái Quốc có quan hệ mật thiết với Báo Le Paria. Trong thời kỳ đầu, từ số đầu cho đến số 14, Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, làm cả việc phát hành và đi bán báo. Sau khi rời Hội Liên hiệp thuộc địa, Người đến Liên Xô rồi đi Trung Quốc, nhưng vẫn gửi bài về đăng báo.
100 năm trước, trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có một sự nghiệp báo chí đồ sộ, không chỉ ở số lượng các bài viết trên nhiều báo chí nước ngoài, mà còn sáng lập và tham gia sáng lập nhiều tờ báo gây tiếng vang lớn. Sự nghiệp đó, công lao đó đặt nền móng vững chắc cho nền báo chí cách mạng Việt Nam hôm nay.
PGS, TS Bùi Đình Phong