.
Kỷ niệm 64 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ (27-7)

Những năm tháng, những chặng đường ân nghĩa

.
Ngày 27-7 năm nay có một sự kiện thật xúc động đối với những anh chị em đã công tác ở Ban Tuyên huấn Đặc khu Quảng Đà thời chống Mỹ. Và cũng là một sự kiện đáng nhớ của những tấm lòng người Đà Nẵng nặng ân tình trong những ngày đền ơn đáp nghĩa này.

Mô tả ảnh.
Cất bốc hài cốt liệt sĩ tại khu căn cứ Hòn Tàu, Duy Xuyên. Ảnh: LÊ VĂN THỌ
 
Cách đây gần 40 năm, đêm 21 rạng 22-5-1972, một loạt bom B52 đã rải trúng cơ quan (phía trước) Ban Tuyên huấn Đặc khu Quảng Đà (ở vùng núi Duy Xuyên). 10 đồng chí hy sinh, nhiều đồng chí bị thương. Anh chị em đã chôn cất được 5 đồng chí, còn 5 đồng chí hy sinh trong một hang đá bị những khối đá lớn hàng mấy chục tấn đè nặng. Anh em biết việc mình phải làm, nhưng đành chịu.

Đất nước đã toàn thắng. Chiến tranh đã lùi xa. Rồi mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, ai cũng phải gánh vác lo toan chuyện công tác, việc gia đình, anh em đồng đội đều thấy mình như còn một món nợ với những người đã khuất.

Năm 1992, một số anh em cùng nhau trở lại chiến trường xưa, cố tìm cho được nơi các đồng đội thân yêu ngã xuống.

Mấy chục năm đã qua, cảnh vật đổi thay quá nhiều. Dù là trở lại nơi mình đã thuộc từng tảng đá, từng con khe, mình từng đi mòn đường chết cỏ, cuộc hành quân về nguồn với bao nhọc nhằn vất vả, đành chấp nhận dừng một nơi mà anh em tin rằng không xa nơi các anh chị nằm xuống. Một tấm bia được gắn ở đó, 5 nắm đất ở đó được đưa vào 5 chiếc hòm gỗ nhỏ,  trong 5 ngôi mộ trân trọng đặt tại Nghĩa trang liệt sĩ Điện Bàn.

Thời gian trôi đi, cuộc sống trong hòa bình biết bao nỗi buồn vui, cay đắng ngọt bùi, song nỗi nhớ, niềm thương những người đã hy sinh ngày càng đau đáu, day dứt.

Gia đình liệt sĩ Hoàng Kim Tùng (quê Quảng Trị, giáo viên cấp 3 vật lý, Ủy viên Ban Tuyên huấn Đặc khu, Bí thư Chi bộ Tiểu ban Tuyên truyền-báo chí, người chèo lái cơ quan phía trước qua bao sóng gió) có nguyện vọng tha thiết: “Thôi anh ấy đã yên nghỉ trong hang đá, yên phận anh ấy. Các đồng chí, đồng đội của anh Tùng hãy làm sao để con trai của anh ấy được đến nơi cha cháu nằm xuống”.

Anh Tùng vào chiến trường năm 1965, để lại hậu phương Hải Phòng người vợ trẻ đồng nghiệp và cùng quê, với con trai đầu lòng mới lẫm chẫm đi từng bước nhỏ. Cháu Tuấn Anh thường được bố Tùng gọi là Hờ Ru, anh đặt theo tên con của Anh hùng Núp trong “Đất nước đứng lên”, nay Hờ Ru đã là một cán bộ chủ chốt của Sở Lao động-Thương binh và Xã hội Quảng Trị. Tuấn Anh Hờ Ru đã có một trai, một gái. Hờ Ru đặt tên con trai là Duy để cả nhà luôn nhớ tới Duy Xuyên, mảnh đất thiêng nơi liệt sĩ Tùng hy sinh.

Mùa hè năm 2009 cả gia đình Hờ Ru cùng với nhiều đồng đội của anh Tùng và các đồng chí ở Báo Đà Nẵng đã lội suối, trèo đèo gần một ngày dưới trời nắng chang chang, nhưng không tìm được địa chỉ đỏ, cuối cùng đành phải đặt cả mâm lễ vật một góc núi, thắp hương mong hồn thiêng anh Tùng về chứng giám lòng thành và những nỗ lực không thành của tất cả.

Và rồi Hoàng Hữu Nam, con của liệt sĩ Hoàng Quốc Thăng (quê Hải Dương, người phụ trách đài minh ngữ của Thông tấn xã giải phóng Quảng Đà - một bộ phận của Ban Tuyên huấn, một chiến sĩ báo vụ rất vững tay nghề và hết sức có trách nhiệm, một người anh luôn thương yêu mọi đồng chí trong cơ quan, đã hy sinh trong hang đá cùng với chiếc máy phát điện quay tay 15W, phương tiện bất ly thân của anh), sau nhiều năm trong quân đội, canh cánh bên lòng tiếng gọi tìm cha, đã xin xuất ngũ, băng bộ vào Quảng Nam-Đà Nẵng đi khắp nơi, gặp nhiều người vẫn không lần ra manh mối.

Những nguyện vọng khắc khoải và mạnh mẽ ấy, trở thành lời thúc giục càng làm cho đồng chí, đồng đội của các liệt sĩ thấy nhất thiết phải đi đến tận nơi, phải tìm cho thấy những gì cần thiết nhất.

Lạ lùng thay, những đồng chí nay tuổi đã khá cao, có người là thương binh, có người mang đủ bệnh đều hăng hái vào cuộc. Có anh chỉ nghe tin mọi người đang làm việc nghĩa tình vội vàng tìm đến, chia sẻ gánh vác. Tất cả đều hẹn với nhau và nguyện với người đã khuất đây là trận cuối cùng, nhất định thắng lợi.

Đã có đến hơn 10 chuyến đi, anh em rà đi rà lại xung quanh tọa độ ấy và cuối cùng đã xác định được đúng nơi 10 đồng chí hy sinh đêm 21-5-1972 với hang đá định mệnh, ngôi mộ chung của 5 người và vạt đồi nơi đã chôn cất 5 người.

Một lễ truy điệu cảm động được diễn ra ngay tại nơi máu các anh chị đỏ thắm một góc rừng. Một tấm bia khắc rõ tên 10 người con yêu của Tổ quốc được gắn trên vách núi ngay tại đó.

Con và cháu liệt sĩ Tùng, con liệt sĩ Thăng đều có mặt. Đồng chí Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng, đồng chí đại diện Sở Lao động-Thương binh và Xã hội Đà Nẵng và nhiều đồng chí, đồng đội của các liệt sĩ đã thắp những nén hương, tất cả đều như nói với những người đã khuất “Chúng tôi đã đến đây với các đồng chí. Tổ quốc và chúng tôi không bao giờ quên các đồng chí”, và như nói với chính mình “Có đến đây chúng tôi mới hình dung được phần nào những gian khổ, hy sinh của các đồng chí, và biết mình phải làm gì trong cuộc sống hôm nay”.

Như được hồn thiêng của các liệt sĩ phù trợ, anh em đồng đội đã hoàn thành việc cất bốc hài cốt 4 liệt sĩ đưa về các nghĩa trang liệt sĩ quê nhà chu đáo. (Hài cốt liệt sĩ Phô đã được gia đình chuyển về ít lâu sau ngày giải phóng). Em gái của liệt sĩ Lê Thị Toán từ Cam Ranh, em trai của liệt sĩ Võ Văn Ấn từ thành phố Hồ Chí Minh, em trai của liệt sĩ Tân từ Gò Nổi đều có mặt tham gia cất bốc di dời, một việc mà ai cũng mong được làm suốt gần bốn chục năm qua.

Vấn đề duy nhất còn lại là làm thế nào tìm lấy được hài cốt của 5 liệt sĩ đang chìm sâu trong hang dưới những khối đá lớn.

Dưới sự chủ trì của Sở Lao động-Thương binh và Xã hội, một phương án khai quật để cất bốc được thảo luận và thống nhất, các chiến sĩ công binh sẽ dùng mìn phá khối đá lớn nhất trên đỉnh hang, sau đó anh em lao động chẻ đá ở địa phương (xã Duy Sơn) tiếp tục chẻ phá dỡ thủ công để làm lộ ra nơi các đồng chí hy sinh.

Khi viết những dòng chữ này,  các đồng chí ở Duy Sơn điện về cho biết đã tiếp cận với hang đá, nơi các anh Tùng, Thăng, Tiệp, Vinh, Thu hy sinh và đã tìm - lượm được một máy phát điện quay tay 15W (của Đài minh ngữ), một máy chiếu phim, hai hộp đựng phim nhựa, một chiếc bi-đông, một chiếc lược, một chiếc dép rọ cùng với mấy chiếc răng có thể là của anh Thăng bởi gần đó là chiếc đồng hồ Orient được xác định là của anh… và mấy mẩu xương.

Chúng tôi không bao giờ nghĩ là sẽ thấy những bộ hài cốt của từng người nằm gọn một chỗ, bởi đã gần 40 năm, thời gian mưa lũ, những khắc nghiệt của khí hậu ẩm nóng… và… nhưng không ngờ “của tin còn một chút này làm ghi” lại nhỏ nhoi, ít ỏi đến như vậy. Nhưng sự thật nghiệt ngã là như thế.

Công việc tìm kiếm, thu lượm còn bao nhiêu ngày nữa mới đến hồi kết thúc?!. Chúng tôi sẽ nhờ các nhà khoa học xác định AND để biết rõ từng mẩu xương là của ai. Đó là một việc…

Trong ngày đầy ý nghĩa này, tất cả các anh với một chút gì còn lại đều là thân thiết vô giá đối với chúng tôi, với những người thân.

Có thể là với những gì nhỏ nhoi ít ỏi ấy, giờ đây chúng tôi đã thanh thản. Câu hỏi lớn, món nợ lớn gần 40 năm qua luôn nhắc nhở chúng tôi những đồng đội và những người thân yêu của các anh phải chăng đã được trả lời, đền đáp.

Không đâu các anh chị ơi, bởi những gì mà vì nó trong những ngày lửa máu ấy, chúng ta đã chiến đấu thật kiên cường, đã sống thật đẹp, thật bình dị đang còn ở phía trước.
 
Nguyễn Đình An
;
.
.
.
.
.