.

“Hiệp định Paris là bài học về độc lập tự chủ”

Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết đầu năm 1973 là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Nhân kỷ niệm 40 năm Ngày ký kết Hiệp định Paris (27-1-1973 – 27-1-2013), bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao, nguyên Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trả lời phỏng vấn về những ngày tháng không thể nào quên tại Paris 40 năm về trước.

* Là nữ Bộ trưởng Ngoại giao duy nhất tại Hội nghị Paris, xin bà cho biết cảm xúc của mình khi nhận nhiệm vụ thiêng liêng nhưng cũng đầy khó khăn này?

- Khi được giao nhiệm vụ đi Paris, tôi rất lo vì biết đây là nhiệm vụ quan trọng và khó khăn, hơn nữa, bản thân tôi không học qua trường ngoại giao nào.

Trong thực tế, tham gia một cuộc đàm phán tức là tham gia một cuộc đấu tranh chính trị không đơn giản, nhưng lúc bấy giờ, tôi nghĩ các đồng chí lãnh đạo đã cân nhắc khi cử tôi đi làm nhiệm vụ này, chắc chắn các đồng chí đã tin tưởng và đánh giá tôi có đủ điều kiện cũng như khả năng hoàn thành nhiệm vụ, vì vậy, tôi đã tự tin lao vào công việc, thực tế là tôi đã rất cố gắng.

Chúng tôi và một số cán bộ từ nhiều cơ quan chức năng, được phân công tham gia hai đoàn đàm phán: đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đều đã hết sức cố gắng và hoàn thành nhiệm vụ.

* Trước khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, giai đoạn đàm phán quyết định nhất là thời gian nào, thưa bà?

- Cuộc đàm phán 4 bên ở Paris với mục đích tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, thời gian hội nghị hơn 4 năm 8 tháng, nhiều lúc rất khó khăn.  

Theo tôi, đợt đàm phán có ý nghĩa quyết định nhất diễn ra vào tháng 10-1972. Khi đó phía Mỹ, chính quyền Nixon nghĩ không thể đánh bại chúng ta bằng quân sự. Vì vậy, họ chấp nhận Dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” và Dự thảo “Thỏa thuận về quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam” do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra, trong đó chấp nhận rút quân hoàn toàn khỏi Việt Nam và để vấn đề chính trị của miền Nam Việt Nam cho các bên của Việt Nam tự giải quyết.

Tuy nhiên, sau đó, chính quyền Nixon đã lật lọng, ngừng đàm phán và tìm mọi cách để không chấp nhận những yêu cầu của Việt Nam, đồng thời gây sức ép để phía ta sửa đổi một số điều trong dự thảo không có lợi cho Mỹ. Mỹ muốn thực hiện các ý đồ bằng chiến dịch “Việt Nam hóa chiến tranh”, dùng vũ khí Mỹ nhưng dùng quân đội miền Nam Việt Nam thay thế quân đội Mỹ để thực hiện thôn tính Việt Nam.

Đỉnh điểm của sự gây sức ép là cuộc không kích bằng B52, tàn phá Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh miền Bắc suốt 12 ngày đêm. Nhưng, cuộc không kích của Mỹ đã thất bại nặng nề không những về mặt quân sự mà còn về chính trị và buộc Mỹ phải chấp nhận trở lại đàm phán đi đến ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

* Xin bà cho biết, đâu là nhân tố quyết định thành công của Hiệp định Paris?

- Có thể nói, Hiệp định Paris là kết quả của cả một cuộc chiến đấu trường kỳ suốt 20 năm của quân và dân ta, từ sau chiến dịch Điện Biên Phủ, năm 1955 ta đã bắt đầu đấu tranh, đến năm 1959, chúng ta vừa đấu tranh vũ trang đồng thời kết hợp đấu tranh chính trị. Như vậy, kết quả của hiệp định là kết quả của cả một cuộc đấu tranh kéo dài.

Cuộc đấu tranh của chúng ta là cuộc đấu tranh toàn dân, toàn diện. Thắng lợi đây là thắng lợi quân sự, nhưng cũng là thắng lợi về chính trị đồng thời là thắng lợi về ngoại giao. Nói đến nhân tố quyết định thì phải nói về cả một cuộc đấu tranh lâu dài và thắng lợi trên các mặt trận để đi đến thúc ép Mỹ ký Hiệp định Paris.

* Theo bà, từ Hiệp định Paris có thể rút ra những bài học quý báu nào cho công tác ngoại giao sau này?

- Tôi nghĩ rằng, Hội nghị Paris trải qua hơn 4 năm, nếu nói cho đúng, trước đó chúng ta cũng đã quan tâm đến vấn đề đấu tranh trên mặt trận dư luận, ngoại giao, nhưng tập trung ở cuộc đàm phán 4 bên ở Paris. Với nhân dân ta nói chung, đặc biệt là các đồng chí làm công tác ngoại giao thì tôi nghĩ cuộc đấu tranh ở hội nghị cho chúng ta rất nhiều bài học và những bài học đó vẫn có giá trị cả ngày nay và mai sau.

 Theo tôi, trước hết cuộc đấu tranh của chúng ta rất phức tạp. Tuy là giữa ta và Mỹ nhưng cũng là mối quan tâm của nhiều nước lớn trên thế giới. Nên bài học từ Hội nghị trước hết là phải giữ vững nguyên tắc về độc lập tự chủ, phải xuất phát từ lợi ích quốc gia, phải biết rõ lực lượng mình như thế nào, đối phương ra sao để quyết định từng bước đi và luôn luôn có sự kết hợp giữa chiến trường và trên mặt trận ngoại giao – đó là bài học về độc lập tự chủ.

Bài học thứ 2 là chúng ta phải hết sức kiên định đối với lập trường nguyên tắc và mục tiêu chiến lược của mình, nhưng trong sách lược phải biết mềm dẻo. Ví dụ, lúc đầu chúng ta đặt ra mục tiêu trong cuộc đàm phán gồm 2 yêu cầu: yêu cầu quân sự là Mỹ phải rút quân hoàn toàn ra khỏi miền Nam Việt Nam. Yêu cầu thứ 2 là ở miền Nam Việt Nam phải bỏ chính quyền tay sai của Mỹ để nhân dân tự lựa chọn chính quyền của mình. Nhưng dựa trên tình hình thực tế, chúng ta đã tập trung vào một mục tiêu là Mỹ phải rút quân hoàn toàn khỏi miền Nam Việt Nam. Chúng ta biết nếu Mỹ rút khỏi và chấm dứt sự can thiệp vào miền Nam Việt Nam thì vấn đề miền Nam Việt Nam ta hoàn toàn có thể giải quyết được.

Bài học lớn nữa là chúng ta biết kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Nghĩa là chúng ta phải trông vào sức mình; về mặt chính trị, quân sự chúng ta đã hết sức cố gắng để đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngoài ra, trong một cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt với đối phương mạnh hơn nhiều lần, chúng ta đã biết tranh thủ sức mạnh đoàn kết quốc tế. Có thể nói, phong trào đoàn kết quốc tế ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của ta là phong trào đoàn kết quốc tế rộng lớn chưa từng có trong lịch sử. Đó chính là sức mạnh to lớn đã góp phần vào thắng lợi trong cuộc đấu tranh của dân tộc ta.

Theo TTXVN

;
.
.
.
.
.