.
HỘI NGHỊ KIỂM ĐIỂM GIỮA NHIỆM KỲ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ LẦN THỨ XX

Tập trung thực hiện 14 vấn đề trọng tâm

.

Ngày 22-10, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố tổ chức Hội nghị kiểm điểm giữa nhiệm kỳ (2010-2015) thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XX. Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND thành phố Trần Thọ và Chủ tịch UBND thành phố Văn Hữu Chiến chủ trì hội nghị.

Bí thư Thành ủy Trần Thọ kết luận hội nghị. Ảnh: VIỆT DŨNG
Bí thư Thành ủy Trần Thọ kết luận hội nghị. Ảnh: VIỆT DŨNG

Mở đầu hội nghị, Bí thư Thành ủy Trần Thọ thông báo khái quát kết quả làm việc thành công giữa Bộ Chính trị với tập thể Ban Thường vụ Thành ủy về tổng kết 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; thông báo nhanh nội dung kết quả Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI).

Kinh tế tăng trưởng khá, chuyển dịch đúng hướng

Theo báo cáo đánh giá kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XX do Chủ tịch UBND thành phố Văn Hữu Chiến trình bày, giai đoạn 2011-2013, tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn (GDP) ước tăng 10%/năm. Mức tăng trưởng trên thể hiện sự cố gắng lớn của thành phố trong bối cảnh khó khăn chung, mặc dù cao hơn mức tăng trưởng bình quân của cả nước, song còn thấp so với mục tiêu nghị quyết đề ra. Thu nhập bình quân đầu người năm 2013 ước đạt 56,3 triệu đồng (tương đương 2.686 USD), bằng 1,35 lần năm 2011.

Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, với tỷ trọng dịch vụ 55,4%, công nghiệp 42,2%, nông nghiệp 2,4%, từng bước thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Giai đoạn 2011-2013, tổng vốn đầu tư phát triển ước đạt 82.700 tỷ đồng, tăng 4%/năm; cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho gần 7.000 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký ước đạt trên 20.000 tỷ đồng; thu hút 105 dự án FDI, với tổng vốn đầu tư 493 triệu USD… Trong năm 2013, thành phố đã ký kết đầu tư một số dự án quy mô lớn: dự án Phát triển bền vững (do Ngân hàng Thế giới tài trợ, vốn đầu tư 272,2 triệu USD); dự án mở rộng hệ thống cấp nước (do ADB tài trợ với 86,03 triệu USD).

Trong phát triển kinh tế, hoạt động du lịch phát triển khởi sắc, từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đến nay, trên địa bàn thành phố có 60 dự án đã và đang triển khai đầu tư vào du lịch, tổng vốn đầu tư trên 4 tỷ USD, góp phần tạo sức hấp dẫn, thu hút và kéo dài thời gian lưu trú của du khách. Thành phố đã xúc tiến mở thêm và khai thác tốt nhiều đường bay trực tiếp đến và đi từ Đà Nẵng. Giai đoạn 2011-2013, tổng lượt khách đến tham quan, du lịch Đà Nẵng ước đạt 8 triệu lượt người, tăng 19,2%/năm, trong đó khách quốc tế ước 1,9 triệu lượt người, tăng 24%/năm. Năm 2013, ước có 3 triệu lượt du khách đến thành phố, bằng 1,3 lần so năm 2011, trong đó khách quốc tế 0,7 triệu lượt; doanh thu du lịch ước đạt 17.100 tỷ đồng, tăng 28%/năm.

Dịch vụ thương mại phát triển nhanh, hạ tầng thương mại tiếp tục được đầu tư đồng bộ, hiện đại; hình thành nhiều trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn lớn; hệ thống chợ được quy hoạch lại. Dịch vụ vận tải đáp ứng tốt nhu cầu giao thương và đi lại của nhân dân, với doanh thu vận tải ước đạt 13.670 tỷ đồng, tăng 16,4%/năm. Dịch vụ bưu chính - viễn thông phát triển mạnh. Dịch vụ tài chính - ngân hàng phát triển đa dạng về loại hình hoạt động. Giai đoạn 2011-2013, tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng ước 146,3 nghìn tỷ đồng, tăng 17%/năm.

Sản xuất công nghiệp duy trì tăng trưởng ổn định, tập trung thu hút công nghiệp công nghệ cao và công nghệ thông tin. Hạ tầng sản xuất công nghiệp được đẩy mạnh đầu tư; đã xây dựng tương đối hoàn chỉnh 6 KCN, diện tích 1.141,8ha và cụm công nghiệp Thanh Vinh diện tích 29,6ha, qua đó thu hút 375 dự án đầu tư, với vốn đầu tư 12.012 tỷ đồng và 830,5 triệu USD. Thành phố đang tập trung xây dựng Khu Công nghệ cao với diện tích 1.120,9ha, tổng vốn đầu tư 8.435 tỷ đồng; hiện đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho 2 dự án FDI sản xuất công nghệ cao, tổng vốn đăng ký 61,87 triệu USD. Công nghiệp công nghệ thông tin (CNTT) phát triển khá, dần trở thành ngành công nghiệp quan trọng.

Tập trung phát triển đô thị và an sinh xã hội

Thành phố thực hiện tốt công tác quy hoạch, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, gắn với tăng cường quản lý đô thị, chỉnh trang đô thị, giải tỏa đền bù và tái định cư, xây dựng thành phố môi trường. Giai đoạn 2011-2013, đã phê duyệt 973 đồ án với tổng diện tích 7.914ha; đã điều chỉnh quy hoạch chung thành phố đến năm 2030, định hướng đến năm 2050, đang trình Bộ Xây dựng xem xét trình Thủ tướng Chính phủ.

Thành phố tập trung đầu tư và hoàn thành đúng tiến độ nhiều công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quy mô lớn, hiện đại như cầu Rồng, cầu Trần Thị Lý, cầu Nguyễn Tri Phương; các tuyến đường Nguyễn Văn Linh nối dài, đường Võ Văn Kiệt, đường Võ Chí Công; quần thể du lịch sinh thái Sơn Trà, Bà Nà - Suối Mơ; Bệnh viện Ung thư, Bệnh viện Phụ sản - Nhi, nâng cấp Bệnh viện Đà Nẵng quy mô 1.100 giường; Cung Thể thao Tiên Sơn...; khởi công dự án nút giao thông ngã ba Huế.

Trong 16 chỉ tiêu chủ yếu theo nghị quyết, đến năm 2013 có 5 chỉ tiêu đã đạt tiến độ kế hoạch như: Cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ hộ nghèo và gọi công dân nhập ngũ.

Đến năm 2015 có 2 chỉ tiêu có khả năng đạt kế hoạch (GDP bình quân đầu người, tỷ lệ dân số nội thành và nông thôn được cấp nước sạch) và có 9 chỉ tiêu dự báo sẽ khó đạt kế hoạch (tốc độ tăng GDP, giá trị sản xuất các ngành dịch vụ, giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng, thu ngân sách Nhà nước và chi ngân sách địa phương, tổng vốn đầu tư phát triển; giảm tỷ suất sinh; giải quyết việc làm hằng năm; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề và tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn).

Công tác giải tỏa, đền bù, bố trí tái định cư tiếp tục được tập trung chỉ đạo. Các năm 2011, 2012, thành phố lấy trọng tâm là “Năm giải tỏa, đền bù, tái định cư và an sinh xã hội”, kết quả từ 2011-2013 có 14.950 hộ dân được di dời để bàn giao quỹ đất cho các dự án và thành phố đã thực hiện bố trí khoảng 19.175 lô đất tái định cư; hình thành nên nhiều khu đô thị, khu tái định cư mới, thay thế các xóm nhà thấp ngập, thiếu hạ tầng, góp phần cải thiện chỗ ở, việc đi lại, học hành, chữa bệnh cho nhân dân.

Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, thành phố từng bước xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh và thực thi các chính sách xã hội giàu tính nhân văn, quan tâm đầu tư và phát triển các lĩnh vực xã hội. Giáo dục và đào tạo phát triển cả về quy mô và chất lượng. Khoa học và công nghệ tiếp tục được quan tâm; ưu tiên nghiên cứu triển khai các đề tài khoa học có khả năng ứng dụng thực tế cao.

Y tế được tăng cường đầu tư, với cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại, phát triển y tế chuyên sâu, bệnh viện chuyên khoa, cung cấp các dịch vụ y tế có chất lượng, kỹ thuật cao, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa và phát triển hệ thống y tế ngoài công lập, cơ bản đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Đặc biệt, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được coi trọng với việc tập trung chăm lo đời sống cho các đối tượng chính sách, đối tượng xã hội, hộ nghèo và đồng bào dân tộc; 100% gia đình chính sách có nhà ở ổn định, có mức sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình của người dân nơi cư trú. Đặc biệt, các chương trình thành phố “5 không”, “3 có” tiếp tục được duy trì, mang đậm tính nhân văn và dần định hình nét văn hóa của thành phố.

Đề án giảm nghèo giai đoạn 2009-2015 (theo chuẩn thành phố) cơ bản đã hoàn thành, về đích trước 3 năm và xây dựng chuẩn nghèo mới giai đoạn 2013-2017. Công tác đào tạo, thu hút và bồi dưỡng nguồn nhân lực tiếp tục được chú trọng. Giai đoạn 2011-2013, đã cử 81 người đi đào tạo đại học, 22 lượt người đào tạo sau đại học, 67 người đào tạo bác sĩ, bác sĩ nội trú theo Đề án 922; thu hút 281 người, trong đó có 3 tiến sĩ, 49 thạc sĩ và 186 tốt nghiệp đại học được bố trí công tác tại các sở, ban, ngành và 43 người công tác tại các phường, xã...

14 vấn đề trọng tâm cần thực hiện

Tại hội nghị, các đại biểu nêu những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện mục tiêu nghị quyết trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Trong đó, nhấn mạnh xuất phát điểm của kinh tế thành phố thấp, quy mô nhỏ, sức cạnh tranh của nền kinh tế thành phố còn yếu. Khó khăn chung của miền Trung và Đà Nẵng về kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, thị trường nhỏ hẹp, sức mua thấp, thường xuyên xảy ra thiên tai, tính liên kết không cao... dẫn đến khó khăn trong hoạt động thu hút đầu tư phát triển; vốn đầu tư phát triển xã hội giảm đã ảnh hưởng chung đến tăng trưởng kinh tế thành phố. Bên cạnh đó, sản xuất công nghiệp quy mô nhỏ, chưa có bứt phá mạnh mẽ, chưa có nhiều dự án lớn có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn; chưa hình thành doanh nghiệp và sản phẩm có quy mô lớn. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn có tăng, song việc triển khai dự án còn chậm, chưa thu hút được nhiều dự án đầu tư công nghệ cao, công nghệ nguồn vào thành phố…

Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Huỳnh Đức Thơ cho rằng, cần cải thiện môi trường thu hút đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh hơn nữa. Trong đó, cần công khai, minh bạch và quảng bá các dự án kêu gọi đầu tư; chú trọng thu hút các dự án lớn về du lịch như Bà Nà - suối Mơ, khu phức hợp quốc tế tại Làng Vân, các dự án tại bán đảo Sơn Trà, Công viên Á Châu, Công viên Đại Dương… Ông Nguyễn Nho Trung, Bí thư Quận ủy Ngũ Hành Sơn đề nghị bên cạnh đẩy mạnh tiếp tục đầu tư các khu du lịch cao cấp ven biển, thành phố cũng quyết liệt rà soát, rút giấy phép đầu tư với những dự án treo quá lâu, chiếm đất gây lãng phí...

Phát biểu kết luận hội nghị, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND thành phố Trần Thọ nhấn mạnh, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2 năm còn lại của nhiệm kỳ là rất lớn, đòi hỏi toàn Đảng bộ thành phố nỗ lực lớn, quyết tâm cao với những cách làm mới, sáng tạo, đột phá mới mong đạt những chỉ tiêu đề ra. Bí thư Thành ủy Trần Thọ yêu cầu tập trung thực hiện 14 vấn đề trọng tâm từ nay đến năm 2015. Cụ thể: Nhanh chóng khắc phục hậu quả bão số 11, ổn định cuốc sống, khôi phục sản xuất, trồng lại cây xanh, bảo vệ môi trường. Từng ngành, từng địa phương phải quyết tâm hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu, nhiệm vụ của ngành mình, đơn vị mình; xem đây là thước đo đánh giá năng lực lãnh đạo của cấp ủy.

Tập trung rà soát, đôn đốc đẩy mạnh thực hiện các công trình nghị quyết nêu đang thực hiện dang dở; đẩy nhanh các dự án lớn xúc tiến đầu tư trong năm 2014 và 2015, trong đó chú trọng công trình nút giao thông ngã ba Huế. Đi liền với đó là xúc tiến, kêu gọi đầu tư vào Khu công nghệ cao và Khu công nghệ thông tin tập trung. Tập trung các nguồn lực bảo đảm đầu tư công và khuyến khích huy động đầu tư toàn xã hội. Tổ chức quán triệt Kết luận Nghị quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị và triển khai thực hiện nội dung kết luận đạt kết quả cao nhất. Bí thư Thành ủy lưu ý, trong quá trình triển khai thực hiện cần phối hợp, bám sát, tranh thủ sự giúp đỡ, hỗ trợ của các bộ, ban, ngành của Trung ương.

Bên cạnh đó, tiếp tục triển khai Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm doanh nghiệp phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực thành phố phát triển như: cao su, bia, ô-tô, linh kiện điện tử. Quan tâm, giúp đỡ doanh nghiệp vừa và nhỏ của thành phố. Tiếp tục nghiên cứu đề ra giải pháp để ngành du lịch phát triển đột phá. Đối với những dự án du lịch ven biển chậm triển khai, thành phố sẽ rà soát và có phương án thu hồi.

“Không để doanh nghiệp xí phần, dành đất gây lãng phí”, Bí thư Thành ủy Trần Thọ lưu ý. Bí thư Thành ủy chỉ đạo tiếp tục thực hiện quyết liệt thu ngân sách, phấn đấu đạt 95% trong năm 2013 và cao hơn những năm sau; từng bước chuyển đổi cơ cấu nguồn thu bền vững, ổn định hơn. Triển khai nhanh Nghị quyết của HĐND thành phố về cơ chế, chính sách phát triển huyện Hòa Vang; bảo đảm mục tiêu chương trình nông thôn mới. Triển khai đề án xây dựng môi trường bền vững. Tiếp tục thực hiện tốt hơn các chương trình thành phố “5 không” và “3 có”; chăm lo tốt an sinh xã hội cho nhân dân thành phố. Trong đó, các lực lượng chức năng làm tốt công tác trấn áp tội phạm ma túy; giảm nghèo bền vững; giải quyết việc làm cho người dân.

Từng cơ quan, đơn vị cần có hành động cụ thể để cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của thành phố; tiêu chí nào liên quan đến ngành nào thì lãnh đạo ngành đó phải chịu trách nhiệm. Tiếp tục triển khai Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về bảo đảm quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị... Tiến hành tổng kết Nghị quyết 09-NQ/TU và Chỉ thị 11-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy về phòng chống tham nhũng, lãng phí, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và ban hành chỉ thị mới. Thực hiện tốt các lĩnh vực xây dựng Đảng, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, Chỉ thị 03-CT/TW về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; chủ động hoàn toàn trong việc chuẩn bị đề án thí điểm chính quyền đô thị ở Đà Nẵng và chuẩn bị cho Đại hội lần thứ XXI Đảng bộ thành phố..

Cả nhiệm kỳ, tăng trưởng GDP ước đạt 9-10%/năm

Dự kiến kết quả đạt được của một số chỉ tiêu chủ yếu trong nghị quyết như sau: Tăng trưởng tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn (GDP, giá so sánh 2010) ước đạt 9-10%/năm (NQ: 13,5-14,5%), trong đó: dịch vụ tăng 10-11%/năm, công nghiệp - xây dựng tăng 8-9%/năm; GDP bình quân đầu người đến năm 2015 ước đạt 3.720 USD (NQ: 3.200 USD). Cơ cấu kinh tế ước năm 2015: dịch vụ: 55,8% (NQ: 54,2%); công nghiệp - xây dựng: 42% (NQ: 43,8%); nông nghiệp: 2,2% (NQ: 2%). Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ ước tăng 12-13%/năm (NQ: 17-18%/năm); công nghiệp - xây dựng tăng 7-8%/năm (NQ: 12-13%/năm); nông nghiệp ước tăng 3-4%/năm (NQ: 3-4%/năm). Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ước tăng 16-17%/năm (NQ: 16-17%/năm).

Tổng thu ngân sách Nhà nước ước tăng 1-2%/năm (NQ: 11,5-12,5%/năm). Tổng chi ngân sách địa phương tăng 0-1%/năm (NQ: 10-11%/năm). Tổng vốn đầu tư phát triển tăng 7-8%/năm (NQ: tăng 15-16%/năm). Giảm tỷ suất sinh bình quân đạt 0,2‰/năm (NQ: 0,3%o/năm). Giải quyết việc làm mới hằng năm 3,1-3,2 vạn lao động/năm (NQ: 3,2-3,4 vạn lao động/năm). Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề ước đạt 45%/năm (NQ: 55%/năm). Đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo theo mức chuẩn của thành phố ước còn 0% (NQ: 0%); ước 100% dân số nội thành và 99% dân số nông thôn được cấp nước sạch (NQ: 100%; 95%); tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn ước đạt 95% (NQ: 100%). Gọi công dân nhập ngũ đạt 100% (NQ: 100%/năm).

VIỆT DŨNG

;
.
.
.
.
.