Trong chiến dịch Điện Biên Phủ 60 năm trước, chàng thanh niên xung phong (TNXP) Nguyễn Tiến Thụ được ví là “vua phá bom nổ chậm”.
Ông Nguyễn Tiến Thụ vẫn nhớ về những năm tháng ở chiến trường Điện Biên Phủ. Ảnh: H.T.PHỐ |
Ông Nguyễn Tiến Thụ được Đoàn TNXP trao tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua số 1 toàn Đoàn mùa 1954. Tấm giấy khen đó do đồng chí Vũ Kỳ, Đoàn trưởng Đoàn TNXP chiến dịch Điện Biên Phủ ký, đến nay ông Thụ vẫn lưu giữ như kỷ vật của một thời không thể nào quên.
“Ngã ba chết” Cò Nòi
Ông Nguyễn Tiến Thụ sinh năm 1934 ở Bắc Ninh, tham gia TNXP từ khi mới 17 tuổi. 60 năm trước, lúc vừa tròn 20 tuổi, vừa được kết nạp Đảng, Nguyễn Tiến Thụ được lệnh tức tốc về Việt Bắc nhận nhiệm vụ mới. Thời điểm đó là tháng 1-1954 và nhập vào Đoàn TNXP Trung ương do đồng chí Vũ Kỳ làm Đoàn trưởng. Từ đây, cùng với 14 đồng chí ở các đơn vị khác, một đội rà phá bom được hình thành để phục vụ chiến dịch Điện Biên lịch sử.
Nguyễn Tiến Thụ được phân công đến chốt lửa Cò Nòi. Những ai đã từng tham gia mặt trận Điện Biên Phủ thời điểm ấy đều không lạ gì những chảo lửa bị bom đánh phá ác liệt: đèo Pha Đin, rồi Nà Sản, Lũng Lô, ngầm Hát Lót, đường vòng cung cây số 7 thị xã Sơn La… Đặc biệt, trên con đường huyết mạch, ngã ba Cò Nòi được quân Pháp “ưu ái”, ngày nào cũng trút bom xuống vài đợt. Đây là ngã ba cắt đường 13 từ Yên Bái lên và đường 41 từ Thanh Hóa lại. Đây cũng là điểm xung yếu nhất, quyết liệt nhất để vận chuyển lương thực, vũ khí từ hậu phương miền Bắc qua Nghĩa Lộ, Yên Bái lên chiến trường Điện Biên Phủ.
Ông Thụ bồi hồi nhớ lại: “Cò Nòi là một thung lũng sâu và hẹp. Mỗi ngày đêm địch thả xuống đây đến 300 quả bom các loại. Chiến dịch mới qua một tháng mà ngã ba Cò Nòi đất đá tơi tả, màu xanh không còn, hàng trăm TNXP bị thương và hy sinh”. Cò Nòi được ví như “ngã ba chết” cũng vì lẽ đó.
Là đội chuyên đi phá bom để bảo đảm tuyến đường thông suốt, đội 40 của ông Thụ không quản thời gian, hễ phát hiện chỗ nào có bom là đến để phá. Các thành viên trong đội đều đang tuổi xuân phơi phới, ai nấy đều ý thức sự nguy hiểm của công việc, biết rằng là đội cảm tử đấy nhưng tất cả đều hăng hái, không ai chùn bước. “Có 4 loại bom mà địch thường thả xuống”, ông Thụ nhớ lại. “Bom phá, nặng từ 200kg đến cả tấn, có tính năng phá nát đường giao thông; bom nổ chậm, vừa có tính năng phá đường, vừa gây sát thương; bom napal và bom bướm. Trong số này, hai loại nguy hiểm nhất là bom nổ chậm và bom bướm. Bom nổ chậm không hẹn giờ, nổ sớm hay muộn do chất axit trong vòng nhựa hãm kim hỏa. Có quả xuống đất vài chục phút đã nổ, có quả ngày hôm sau, thậm chí cả tuần sau. Còn bom bướm thì cực kỳ nguy hiểm. Đây là loại bom sát thương. Khi địch thả trên máy bay xuống, bom bướm to lớn hơn cả thùng phi, nhưng ngay sau đó nó “xòe” ra tung 200 quả bom con (nhỏ như hộp sữa bò), mỗi quả có cánh xòe để tản đi khắp nơi. Khi bom bướm đậu xuống đất thì ngòi nổ đã sẵn sàng, chỉ va nhẹ vào đã nổ. Loại bom này vỏ làm bằng gang, giòn và mảnh nhỏ, khi nổ có thể gây sát thương cả chục người quanh đó. Bộ đội, dân công ai ai cũng sợ bom bướm”.
Cách phá bom bướm lại rất đơn giản. Phát hiện bom, tìm một chỗ nấp an toàn, chỉ cần lấy sào dài chọc cho nổ. Tuy nhiên, không phải trăm phát “ăn” cả trăm. Lần ấy, đồng chí Thới - người Thanh Hóa - giật một quả bom nhiều lần không nổ. Vốn được anh em coi như “sát thủ của bom bướm”, Thới bực mình liền ra nhặt trái bom quăng xuống khe núi. Bom phát nổ trên tay, cắt đứt hai bàn tay. Đêm ấy, Thới hy sinh.
Tháo bom bướm bằng... tay để nghiên cứu
Sự hy sinh của Thới khiến Nguyễn Tiến Thụ suy nghĩ rất nhiều. Là đội trưởng, Nguyễn Tiến Thụ đã bàn với anh em, rồi viết đơn xin chỉ huy đại đội cho phép được trực tiếp tháo quả bom bướm để nghiên cứu nguyên lý hoạt động. Bởi chỉ khi nắm chắc được cơ chế hoạt động của nó, việc phá bom mới hiệu quả, ít gây ra mất mát. Ông Thụ kể: “Tôi phân tích rằng, đây là bom sát thương, nên khi nổ, bom sẽ hất mảnh theo hướng từ mặt đất lên trên chứ không khoan xuống phía dưới. Vì thế, ta có thể đào một cái hố sâu ngập đầu người, khi tháo sẽ giơ tay lên mặt đất. Tình huống xấu nhất là bom nổ, thì chỉ bị… cụt hai bàn tay thôi. Anh em bàn bạc nhiều, cũng đắn đo. Nhưng rồi được toàn đội nhất trí, tôi nhận nhiệm vụ tháo quả bom này. Anh Chánh - người Thái Bình - hơn tôi 5 tuổi dặn dò: “Thụ ơi cẩn thận đấy, mới 20 tuổi mà cụt 2 bàn tay là gay đấy”. Tôi bình tĩnh nhảy xuống hố và giơ quả bom lên khỏi mặt đất, bắt đầu thao tác. Loay hoay xoay hơn 5 phút vẫn chưa tháo được, đồng đội ở ngoài lo âu hồi hộp. Thì ra loại bom này phải tháo ngược chiều kim đồng hồ. Đến khi tháo được, đưa được ngòi nổ của quả bom ra ngoài, mọi người đều thở phào”.
Từ đó, nguyên lý của bom bướm được xác định: những quả chọc hoặc giật không nổ do chốt kim hỏa bị vướng hoặc lò xo giữ kim hỏa không hoạt động. Từ đó, kinh nghiệm được phổ biến rộng rãi trên toàn tuyến: đối với những quả bom không nổ thì kéo vào một hố sâu, gom lại cứ 15-20 quả thì cho bộc phá phá nổ một lần.
Năm 2004, đúng dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, trong lần gặp gỡ các nhân chứng lịch sử, “người chiến sĩ thi đua số 1” Nguyễn Tiến Thụ có dịp báo cáo trước Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nghe trình bày về việc tự tay tháo bom bướm để nghiên cứu, Đại tướng đã nghe chăm chú và rất cảm động.
Nhiều lần bị bom “chôn sống”
Ông Thụ vẫn nhớ như in, những ngày giữa tháng 3-1954 là thời kỳ vô cùng ác liệt, suốt ngày không biết bao nhiêu đợt đánh phá, trút biết bao nhiêu tấn bom các loại xuống Cò Nòi.
Là đội trưởng của đội phá bom, ông Thụ có kinh nghiệm, cứ khi địch rải bom xuống, nếu thấy không nổ ngay tức là đợt bom cuối cùng, bom nổ chậm. Ấy thế nhưng có đến 3 lần ông bị bom vùi lấp. Ba lần bị “chôn sống” ấy không bao giờ ông quên.
Lần ấy, vừa đến Cò Nòi chưa được một tuần, thấy có 2 quả bom nổ chậm, ông và đồng đội đang đào tìm ngòi nổ thì bất ngờ quả phía sườn đồi phát nổ, ông và đồng đội bị vùi, được anh em chạy đến bới lên an toàn. Ngày 16-3, hai đồng đội hy sinh vì bom nổ ngay khi đang đào, ông cùng đội phá bom đã biến đau thương thành hành động, lao vào cuộc chiến đấu thầm lặng và căng thẳng, tiếp tục làm nhiệm vụ để các đoàn xe vẫn đi qua ngã ba Cò Nòi.
Đánh phá Cò Nòi ác liệt nhưng thấy quân ta vẫn tiến sâu vào Điện Biên, thế là địch chuyển hướng đánh vào ngầm Hát Lót. Khi đó, Nguyễn Tiến Thụ được phân công về làm Đại đội phó Đại đội 404 phụ trách đường ngầm Hát Lót. Lúc đào một quả bom lớn 500kg, còn cách khoảng 30m thì bom nổ, đất đá từng tảng lớn rơi xuống, ông bị vùi không nhiều nhưng bị hòn đá rơi vào đầu. Ông bị choáng không thể tự đứng dậy được, những chiến sĩ dự bị của đơn vị có mặt kịp thời bới đất kéo tất cả 5 anh em đưa về trạm xá hồi sức. Sau 4 tiếng hồi phục, ông lại ra hiện trường làm nhiệm vụ.
Một ngày cuối tháng 4, khi ông đặt bộc phá xong châm lửa vào đầu dây cháy chậm để phá quả bom 500kg, ông chạy được chưa đầy 50m thì bom nổ, đất đá vùi lấp không nhiều nhưng bom lớn lại nằm gần mặt đất nên nổ khá dữ dội. Ông bị vùi và choáng, anh em bới đất lên dìu về trạm xá cấp cứu hồi sức.
60 năm qua đi, giờ ngồi trong căn nhà nhìn ra Hồ Tây (Hà Nội) bên tấm Huân chương kháng chiến hạng nhì, ông Nguyễn Tiến Thụ rưng rưng kể lại những câu chuyện về chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa. Với ông, những năm tháng tuổi trẻ gắn liền với đạn bom là quãng thời gian đẹp nhất của cuộc đời, không suy tính, không bon chen…
HOÀNG THU PHỐ