.

Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế

.

Một yêu sách chủ quyền đối với các lãnh thổ vô chủ phải bao hàm hai thành tố: ý định, ý chí hành động với tư cách nước có chủ quyền và phải thực hiện thật sự quyền lực đó. Chỉ khi có hai yếu tố này thì việc thụ đắc chủ quyền mới được chấp nhận theo luật pháp quốc tế.

Theo đó, việc phát hiện kèm theo sự khẳng định công khai về chủ quyền mới chỉ tạo ra một danh nghĩa sơ khởi. Để hoàn thiện danh nghĩa này, làm cho nó đầy đủ và chắc chắn, phải có sự chiếm hữu thực sự, kèm theo ý định chiếm lấy lãnh thổ một cách rõ ràng. Như vậy, có hai yếu tố xen kẽ: một là yếu tố vật chất: việc phát hiện, sau đó là yếu tố chủ tâm, sự khẳng định công khai về chủ quyền; và sau hết là sự tăng cường yếu tố vật chất.

Trong yếu tố vật chất cần phân biệt rõ sự khác biệt giữa hiểu biết đơn thuần về lãnh thổ và chiếm hữu thực sự.

Một lãnh thổ, nhất là đảo hay quần đảo, có thể từ rất lâu, các thủy thủ, ngư dân đã thường xuyên lui tới hay cũng có thể các nhà địa lý đã biết đến vì họ muốn mở rộng việc nghiên cứu tới tất cả khu vực, bất kể thuộc chủ quyền của quốc gia nào. Khi ấy, lãnh thổ này không là đối tượng của “phát hiện” có hiệu lực pháp lý. Chỉ phát hiện thôi thì không bao giờ tạo được cơ sở đảm bảo cho một yêu sách đối với đất vô chủ. Đó chỉ là những hiểu biết đơn thuần về lãnh thổ.

Trong khi đó, nội dung chủ yếu của nguyên tắc chiếm hữu thật sự trong luật pháp quốc tế bao gồm :

- Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do Nhà nước tiến hành;

- Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh thổ vô chủ hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia đã làm chủ nó trước đó. Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động phi pháp;

- Quôc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần thiết, tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó;

- Việc thực thi chủ quyền phải liên tục, hòa bình.

Căn cứ vào nguyên tắc pháp lý này (tính đến năm 1884), đối chiếu với quá trình xác lập và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do các bên tranh chấp nêu ra, chắc chắn sẽ có được những nhận xét khách quan và khoa học về quyền thủ đắc lãnh thổ đối với hai quần đảo này.

Trước hết, chúng ta cùng xem xét đến những chứng cứ của phía Trung Quốc:

Trung Quốc đã trích dẫn nhiều dẫn chứng trong các sách địa lý để chứng minh chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Qua nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong đó nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của người Trung Quốc đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… ở các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và Nam Á và đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài. Vì vậy, các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung các địa điểm chứ không có ý nghĩa pháp lý, nhờ đó, có thể đặt hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc.

Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265) viết dưới triều Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hằng hải trong Biển Đông nhưng lại rất không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo này hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp.

Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi nhận rằng, đã gặp trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định đây là những mô tả về quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, thiếu chính xác, không thể căn cứ vào đó để nói rằng đó chính là Trường Sa.

Các tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi (đời Tống, 1178), Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (đời Tống, 1225), Đảo di chí lược của Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp (1618), Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lục viết ở đời Thanh, Hải Lục của Vương Bính Nam (1820), Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848),vv… là một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi, các chuyến khảo địa lý, sách hằng hải liên quan tới các nước bên ngoài Trung Quốc.

Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam

Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam cho rằng, thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ rút ra từ đó kết luận, Hoàng Sa, Trường Sa từ lầu đã là lãnh thổ của Trung Quốc: “Bản đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ địa điểm của Việt Nam là Giao chỉ quốc, nước Giao chỉ và biển thì ghi rõ là Giao chỉ dương, đất liền là Giao chỉ quốc và biển là biển của Giao chỉ. Hàng trăm bản đồ quốc tế khác nhau, tất cả đều rất thống nhất về phương diện công pháp quốc tế, chứng minh rất rõ ràng chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.”

Người Trung Quốc còn đưa ra các dẫn chứng khác để chứng minh chủ quyền lâu đời của mình đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Nhưng phải khẳng định ngay rằng, chúng không thể hiện rõ ràng ý định của nước này về chủ quyền đối với hai quần đảo.

Đó là dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X-XII), "hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng quần đảo Tây Sa (tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam)", xuất phát từ Quảng Đông, qua đó kết luận rằng, "triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa trong phạm vi cai quản của mình". Khi phân tích kỹ dữ liệu này thấy rằng, đó không phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến thăm dò địa lý cho tới tận Ấn Độ Dương, không minh chứng một sự chiếm hữu nào.

Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự kiện đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở "Nam Hải" để nói rằng, "quần đảo Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung Quốc đời Nguyên".

Theo Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên được ghi chép như sau: "Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi, Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc". Ghi chép trong Nguyên Sử thấy rõ, việc đo đạc thiên văn ở hai mươi bảy nơi, trong đó có cả một số nơi ngoài "cương vực Trung Quốc" như Cao Ly nay là Triều Tiên, Thiết Lặc vùng Xi-bia, thuộc Nga và cả Biển Đông, chứ không phải là "đo đạc" "toàn quốc" như văn kiện của Bắc Kinh nói. Mặt khác, nếu coi đó là cơ sở pháp lý cho chủ quyền của Trung Quốc thì điều đó có thể dẫn đến những đòi hỏi của nước này về lãnh thổ tới cả cả Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Nga!

Cuối cùng, người Trung Quốc đưa ra các tài liệu về một cuộc tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới triều nhà Thanh. Ngô Thăng, Phó tướng thủy quân Quảng Đông chỉ huy chuyến đi này. Người Trung Quốc khẳng định đã đi qua vùng biển tương ứng với vùng biển của quần đảo Hoàng Sa và kết luận rằng, vùng biển này “lúc đó do hải quân tỉnh Quang Đông phụ trách tuần tiễu”. Tuy nhiên, nếu dõi theo hành trình này trên bản đồ, dễ dàng nhận xét rằng, đó chỉ là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là hành trình tới các biển xa.

Đoạn văn viết: “Từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm”. Xin được chú thích rõ các địa danh này: Quỳnh Nhai gần thị trấn Hải Khẩu ngày nay, phía Bắc đảo Hải Nam; Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo Hải Nam; Thất Châu Dương là vùng biển có 7 hòn đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía Đông đảo Hải Nam; Tứ Canh Sa là bãi cát ở phía Tây Đảo Hải Nam.

 

Quan trọng hơn, ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho rằng, những tài liệu do phía Trung Quốc đưa ra không có tính pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du hành, hằng hải, những thương thuyền, họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán thì trong quá trình đi, họ nhìn thấy những vùng đảo, ghi chép thì đó là dạng sách du ký, chứ không phải tài liệu chính thống của chính quyền Trung Quốc. Để xác lập chủ quyền thì những điều được biên chép phải nằm trong trong chính sử hoặc trong sách mà bây giờ mình gọi địa chí, Trung Quốc gọi là phương chí. Đó là những phương tiện được Nhà nước thừa nhận.”

Rõ ràng, Trung Quốc không phải là quốc gia đầu tiên kiểm soát thực sự các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vì nó thiếu hẳn các yêu cầu mà luật quốc tế thời đó đòi hỏi.

Các tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính các nguồn tư liệu của nước này. Theo đó, có nhiều tài liệu địa lý cổ mô tả và nói rõ lãnh thổ của nước này có điểm tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam. Trong đó, đáng chú ý là cuốn địa chí phủ Quỳnh Châu cũng như cuốn địa chí tỉnh Quảng Đông năm 1731. Điều này cũng được ghi trong Hoàng triều nhất thống Dư địa tổng đồ, phát hành năm 1894. Ngoài ra, quyển sách “Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư”, phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng: “điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18o13’ Bắc.”

 

Ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc nhấn mạnh: “Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí đó chưa từng biên chép gì về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là điểm để người ta nhận ra rằng, Trung Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Những chỉ dụ của Hoàng Đế hoặc tấu sớ của các quan trong triều  cũng thừa nhận đơn vị hành chính nước này đến huyện Nhai, phủ Quỳnh Châu, tức là đảo Hải Nam.”

Qua việc xem xét kỹ các tư liệu do người Trung Quốc đưa ra, bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này:

“Trung Quốc đưa ra những giấy tờ cho rằng đã tìm ra các hòn đảo này từ lâu, nhưng về khía cạnh luật pháp, tôi có thể nói rõ, Trung Quốc không đưa ra được bằng chứng thuyết phục nào. Mãi về sau này, Trung Quốc mới có yêu sách về chủ quyền đối với các quần đảo. Đối với Hoàng Sa, Trung Quốc có yêu sách về chủ quyền bắt đầu từ năm 1909. Còn đối với Trường Sa là sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong khi đó, Việt Nam có những bằng chứng quan trọng và thuyết phục hơn nhiều xét về khía cạnh luật pháp, với sự quản lý lâu đời và liên tục”- bà Monique Chemillier Gendreau nói.

Các tài liệu của Việt Nam cho thấy, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào.

Toàn tập Thiên Nam từ chí lộ đồ thư, được soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rõ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam: "giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng", "Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".

Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam phân tích: “Từ bản đồ Hồng Đức năm 1490, rồi sau này của nhà Nguyễn (1838) cũng vẽ bản đồ trong Đại nam nhất thống toàn đồ cũng chỉ rõ, ở bên cạnh, gần miền Trung, phía trên là quần đảo Hoàng Sa, phía dưới ghi là Vạn Lý Trường Sa.”

Chứng cứ kế tiếp xác lập rõ ràng hơn nữa chủ quyền của Việt Nam là bộ sách Phủ Biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775). Bộ sách này chép rõ, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo đó với tư cách một quốc gia làm chủ.

Lê Quý Đôn viết: “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền tiểu câu ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến các đảo ấy rồi ở lại đó. Tha hồ kiếm lượm, bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên cùng là kiếm lượm mai đồi mồi, mai hải ba, hải sâm, hột ốc hoa, rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp. Cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc hoa, hải ba, hải sâm, rỗi lĩnh bằng trở về.

Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định  bao nhiêu suất hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền tiểu câu ra các xứ Bắc Hải, Cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm hoá vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản".

GS. Nguyễn Quang Ngọc, Viện trưởng Viện Việt Nam học và phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội phân tích: “Chúng ta có 1 loại tài liệu về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa mà không có bất cứ một quốc gia nào có. Tài liệu đó là châu bản. Nó là những báo cáo của Bộ Công về việc thực hiện lệnh của nhà vua, đề nghị cho tàu thuyền đi khảo sát, đo đạc ở Hoàng Sa. Nhà vua xem, đồng ý, phê vào đấy. Tức đây là một loại quyết định chính thức của triều đình được nhà vua phê duyệt. Không có nước nào có những tài liệu này đưa ra làm chứng cả, chỉ có chúng ta có. Những tài liệu này là đỉnh cao tuyệt vời khẳng định rõ ràng chủ quyền của chúng ta ở Hoàng Sa, Trường Sa.”

Rõ ràng, Việt Nam không chỉ có sự hiểu biết lâu đời đến hai quần đảo này mà còn chiếm hữu thực sự chúng ít nhất từ thế kỷ XVII, là nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền trên các quần đảo này.

VOV

;
.
.
.
.
.