.
KỶ NIỆM 55 NĂM NGÀY MỞ ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH

Biểu tượng của ý chí thống nhất non sông

.

Trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh được biết đến như một con đường huyền thoại, một “Trận đồ bát quái xuyên rừng rậm” nối liền và chuyển vận toàn bộ sức mạnh tiềm tàng và to lớn từ hậu phương ra tiền tuyến. Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là một biểu tượng ngời sáng của ý chí và quyết tâm sắt đá giải phóng miền Nam, thu non sông về một mối của toàn dân tộc Việt Nam.

Đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng vào Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. (ảnh tư liệu)
Đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng vào Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. (ảnh tư liệu)

Trải qua 16 năm, kể từ ngày đầu soi đường, mở lối cho đến khi kết thúc chiến tranh, đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh đã phải đương đầu với sự ngăn chặn khốc liệt, tàn bạo, bằng nhiều lực lượng, nhiều thủ đoạn, nhiều loại phương tiện chiến tranh và vũ khí hiện đại nhất lúc bấy giờ của kẻ thù. Nơi đây, suốt 16 năm đã diễn ra cuộc chiến tranh ngăn chặn và chống ngăn chặn giữa cỗ máy quân sự khổng lồ của đế quốc Mỹ với quân và dân ta. Nhiều tác giả Mỹ và phương Tây, ngay từ ngày đó và cho đến sau này, có những nhận xét khá xác đáng về nguyên nhân thất bại của Mỹ ở Việt Nam, ở đường mòn Hồ Chí Minh và họ đều thừa nhận: “Mỹ bại trận vì không cắt đứt được con đường Trường Sơn; và Mỹ không thể nào cắt đứt được con đường vì “con đường mòn này không phải chỉ là một con đường được vạch ra mà nó là cả một luồng tư tưởng”… Toàn bộ con đường mòn Hồ Chí Minh mà người ta nói đến hôm nay, là tổng kết của hàng thế kỷ đấu tranh và áp bức, cho nên con đường ấy có sức sống mãnh liệt, vì nó là tượng trưng cho sức chiến đấu của cả một dân tộc chứ không phải vì những đoạn đường cụ thể, vì những dốc đèo thẳng đứng hay vì rừng núi rậm rạp hoặc những vùng đồng bằng mà nó đã băng qua”.

Trên thực tế, qua 16 năm, từ lối mòn giao liên bí mật len lỏi dưới các triền rừng, vách núi; với phương thức vận tải thô sơ, gùi thồ là chủ yếu, đường Hồ Chí Minh đã phát triển thành mạng đường chiến lược - chiến dịch, với hệ thống trục dọc và trục ngang, ngày càng vươn xa tới các chiến trường, vươn sâu vào các mặt trận, các hướng chiến dịch của chiến trường miền Nam, chiến trường Trung-Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia. Đến trước ngày mở chiến dịch lịch sử mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuyến vận tải chiến lược đã có chiều dài lên tới gần 20.000km, gồm các hệ thống trục dọc: 6.180km, 13 hệ trục ngang: 4.920km, 5 hệ thống đường vượt khẩu: 700km, 1 hệ thống đường vòng tránh các trọng điểm: 4.700km, 1 hệ thống đường ống dẫn xăng dầu: 1.400km và tuyến vận tải đường sông vào tới Stung Treng. Trên mọi nẻo đường, hơn 120.000 cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong, công nhân giao thông, dân công hỏa tuyến và các văn nghệ sĩ suốt một thời tuổi trẻ đã gắn bó máu xương với núi rừng Trường Sơn; trong số đó, 20.000 người đã anh dũng hy sinh, hơn 30.000 người bị thương và biết bao người bị ảnh hưởng chất độc da cam/dioxin.

Những tháng năm bom đạn ấy, miền Bắc đã dốc toàn bộ sức mạnh của cả chế độ cho miền Nam, với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Lớp lớp thanh niên rời ruộng đồng, xưởng máy, trường học, theo tiếng gọi của non sông đất nước, lên đường đánh giặc với ý chí “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Đằng đẵng những năm tháng chiến tranh, bao người mẹ, người vợ, người chị, người em cắn răng chịu đựng thiếu thốn, vất vả, gian lao, “ba đảm đang” cho người thân yên lòng ra trận.

Trong 16 năm, bộ đội Trường Sơn đã vận chuyển một khối lượng lớn vật chất từ hậu phương miền Bắc, giao cho các chiến trường: 1,5 triệu tấn hàng hóa, vũ khí; 5,5 triệu m3 xăng, dầu; đưa đón, vận chuyển, đảm bảo hành quân trên 2 triệu lượt người... Sự thông suốt và năng lực bảo đảm hành quân, vận tải chi viện của đường Trường Sơn đóng vai trò to lớn trong việc tập kết lực lượng và vật chất, tạo nguồn dự trữ chiến lược, cùng quân và dân cả nước nói chung, quân và dân miền Nam nói riêng, thực hành thắng lợi các đòn chiến lược, làm chuyển biến cục diện chiến trường, đưa đến đại thắng mùa Xuân 1975. Đến đây, đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử trọng đại của nó trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó là con đường giải phóng, “Con đường của ý chí quyết thắng, của lòng dũng cảm, của khí phách anh hùng. Đó là con đường Nam-Bắc, thống nhất nước nhà, là con đường tương lai giàu có của Tổ quốc ta. Đó cũng là con đường đoàn kết của các dân tộc, của ba nước Đông Dương”, như lưu bút của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn trong sổ vàng truyền thống Bộ đội Trường Sơn.

G.H tổng hợp

;
.
.
.
.
.