* Từ 23 đến 27-1-1953: Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp bàn về các nhiệm vụ cơ bản của Đảng năm 1953, nhất là công tác phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất. Về phương diện quân sự, Trung ương đã chỉ thị: “Phương hướng chiến lược của ta là tìm chỗ yếu của địch mà đánh, bắt địch phải phân tán lực lượng. Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì đánh cho kỳ thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh... Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, chúng ta chỉ được thắng, không được bại”.
* 24-7-1953: Hội đồng quốc phòng Pháp họp thông qua “Kế hoạch Na-va”. Theo đó, tướng Na-va chủ trương phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, tập trung lực lượng bình định miền Nam, đến mùa thu năm 1954 sẽ tập trung quân ra Bắc, tiêu diệt chủ lực ta, hoàn thành thôn tính nước ta trong 18 tháng vào khoảng giữa năm 1955. (Trước đó, ngày 8-5-1953, Na-va được bổ nhiệm làm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương).
* 10-9-1953: Pháp xin thêm của Mỹ một khoản viện trợ đặc biệt 385 triệu USD để thực hiện Kế hoạch Na-va.
* Cuối tháng 9-1953: Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp xác định phương châm tác chiến của ta là: “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”. Hướng chính của chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 là Tây Bắc.
* Từ ngày 20 đến 22-11-1953: Địch nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Ngày 30-11-1953, Đờ Cát-xtơ-ri được bổ nhiệm chỉ huy “quân đồn trú Điện Biên Phủ”, thay cho tướng Gin.
* 14-1-1954: Bộ Chỉ huy Mặt trận Điện Biên Phủ tổ chức hội nghị bàn kế hoạch tấn công Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
* 2-2-1954: Tướng Mỹ Ô Đa-ni-en lên kiểm tra Điện Biên Phủ tỏ ý “rất hài lòng” về tổ chức phòng ngự ở đây.
* 3-2-1954: Địch rải truyền đơn thách ta tấn công Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
* 19-2-1954: Na-va nhận định: “Ngọn trào tấn công của Việt Minh đã đến lúc xuống” và ra lệnh phản công trên khắp các chiến trường Đông Dương.
* 22-2-1954: Bộ Chỉ huy Mặt trận Điện Biên Phủ tổ chức hội nghị cán bộ chiến dịch để kiểm điểm công tác chuẩn bị tấn công đợt một.
Tháng 3-1954
* 11-3-1954: Những khẩu trọng pháo cuối cùng của ta đã vào chiếm lĩnh trận địa. Quân ta bắt đầu đào trận địa xuất phát tấn công vào Him Lam.
* 13-3: Đợt tấn công thứ nhất bắt đầu. Ta tấn công tiêu diệt trung tâm đề kháng Him Lam.
* 15-3: Ta tấn công tiêu diệt trung tâm đề kháng đồi Độc Lập.
* 17-3: Địch ở Bản Kéo chạy ra hàng.
* 20-3: Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư động viên bộ đội tiếp tục xây dựng trận địa tấn công và bao vây sát địch hơn nữa.
* 30-3: Đợt tấn công thứ hai bắt đầu. Ta tấn công tiêu diệt địch ở đồi Cl, đồi E, đồi Dl, rồi phát triển đánh sang các điểm cao C2, D2, cứ điểm 210 và đồi A1.
Tháng 4-1954
* 1-4: Cuộc chiến đấu ở đồi A1 vẫn diễn ra ác liệt. Nhiều trận xung phong và phản xung phong diễn ra liên tiếp.
* 5-4: Ta tấn công cứ điểm 105.
* 9-4: Quân địch dồn lực lượng phản kích định chiếm lại Cl. Cuộc chiến đấu đã diễn ra quyết liệt. Mỗi bên chiếm một nửa cứ điểm.
- Súng phòng không 12,7 ly của ta hạ chiếc máy bay vận tải 2 thân (C.119) đầu tiên.
* 12-4: Pháo cao xạ của ta hạ một B.24. Đó là chiếc máy bay thứ 50 bị ta bắn rơi ở Điện Biên Phủ.
* 22-4: Ta tiêu diệt cứ điểm 206 bằng chiến thuật đánh lấn, cứ điểm cuối cùng của địch nằm sát sân bay Mường Thanh về phía tây.
Tháng 5-1954
* 1-5: Đợt tấn công thứ ba bắt đầu. Ta tấn công tiêu diệt hoàn toàn các cứ điểm 505, 505A và 311A.
* 7-5:
- 2 giờ 30: Cờ “Quyết chiến quyết thắng” của quân ta tung bay trên điểm cao A1.
- 15 giờ: Bộ Chỉ huy Mặt trận hạ lệnh Tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.
- 17 giờ 30: Đại đoàn Bến Tre báo cáo bên Bộ Chỉ huy Mặt trận: “Tất cả quân địch trong khu trung tâm đã đầu hàng. Đờ Cát và cả ban tham mưu của hắn đã bị bắt”.
LÊ VĂN THƠM (Tổng hợp từ các tài liệu)