Luật Đất đai quy định chi tiết về chính sách thu hồi đất, bồi thường tái định cư; gia hạn về tiến độ sử dụng đất; tăng thời hạn giao đất...; hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất khi Nhà nước thu hồi đất. Đó là những điểm đáng quan tâm. Các chính sách này được cụ thể hóa bằng Nghị định 51/2014/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2014.
Chính sách hỗ trợ
Luật Đất đai được kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 29-11-2013, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2014. Luật quy định, đối với cá nhân, hộ gia đình bị thu hồi từ 30 - 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng, được Nhà nước hỗ trợ trong thời gian 6 tháng (nếu không phải di chuyển chỗ ở) hoặc 12 tháng (nếu phải di chuyển chỗ ở); trường hợp phải di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn, thời gian hỗ trợ tối đa là 24 tháng.
Đối với trường hợp thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng, thời gian hỗ trợ là 12 tháng (nếu không phải di chuyển chỗ ở), 24 tháng (nếu phải di chuyển chỗ ở) hoặc tối đa 36 tháng (nếu phải di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn).
Mức hỗ trợ trong thời gian nêu trên được tính bằng tiền tương đương 30kg gạo trong một tháng theo thời giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ của địa phương. Riêng đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bị ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất, mức hỗ trợ ổn định sản xuất được tính bằng tiền, cao nhất bằng 30%/năm thu nhập sau thuế theo mức thu nhập bình quân của 3 năm liền kề trước đó.
Nội dung trên quy định tại Nghị định 51/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2014 và thay thế Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 3-12-2004.
Loại đất nào thì áp dụng khung giá của loại đất đó
Đối với đất ở tại đô thị; đất thương mại, dịch vụ tại đô thị; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp không phải đất thương mại, dịch vụ tại đô thị có khả năng sinh lợi cao, có lợi thế trong việc sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ thì căn cứ vào thực tế tại địa phương, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được quy định mức giá đất cao hơn nhưng không quá 30% so với mức giá tối đa của cùng loại đất trong khung giá đất; trường hợp quy định mức giá đất cao hơn 30% phải báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét, quyết định.
Đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư, trong địa giới hành chính phường thì căn cứ vào thực tế tại địa phương, UBND cấp tỉnh được quy định mức giá đất cao hơn nhưng không quá 50% so với mức giá tối đa của cùng loại đất trong khung giá đất.
Bảng giá đất được điều chỉnh trong trường hợp Chính phủ điều chỉnh khung giá đất mà mức giá đất điều chỉnh tăng từ 20% trở lên so với giá đất tối đa hoặc giảm từ 20% trở lên so với giá đất tối thiểu trong bảng giá đất của loại đất tương tự; hoặc khi giá đất phổ biến trên thị trường tăng hoặc giảm từ 20% trở lên so với giá đất trong bảng giá đất trong khoảng thời gian từ 180 ngày trở lên.
Được gia hạn đối với tiến độ sử dụng đất
Nghị định 51/2014/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết về thời điểm tính gia hạn 24 tháng đối với trường hợp không đưa đất vào sử dụng hoặc tiến độ sử dụng đất chậm như sau: Đối với dự án đầu tư không đưa đất vào sử dụng trong thời gian 12 tháng liên tục kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa thì cho phép chủ đầu tư được gia hạn sử dụng 24 tháng tính từ tháng thứ 13 kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa.
Trường hợp dự án đầu tư chậm tiến độ sử dụng đất 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa thì thời điểm để tính gia hạn sử dụng đất 24 tháng được tính từ tháng thứ 25 kể từ thời điểm kết thúc việc đầu tư xây dựng.
Tăng thời hạn giao đất nông nghiệp
Từ ngày 1-7-2014, thời hạn cho thuê đất; giao đất, công nhận quyền sử dụng đất trồng cây hằng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp được tăng lên 50 năm thay vì 20 năm như quy định hiện hành. Thời hạn giao đất, cho thuê đất đối với các trường hợp còn lại vẫn giữ nguyên ở mức tối đa 70 năm đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm; 99 năm đối với thuê đất xây trụ sở làm việc của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao và 70 năm đối với đất xây dựng công trình sự nghiệp của tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính.
Bên cạnh đó, Luật cũng cho phép nhà đầu tư được tiếp tục chậm sử dụng đất thêm 24 tháng và phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này. Hết thời hạn, nếu đất vẫn chưa được đưa vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp bất khả kháng.
Triệu Tùng