Ngày 22-10, Quốc hội làm việc tại Hội trường Ba Đình, nghe các tờ trình và báo cáo thẩm tra dự án Luật Tài nguyên- Môi trường, Biển và hải đảo, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi); báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi) và tiến hành thảo luận ở hội trường về luật này.
Đồng chí Huỳnh Nghĩa, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Đà Nẵng phát biểu tại hội trường. Ảnh: HỮU HOA |
Trưởng Đoàn ĐBQH thành phố Đà Nẵng Huỳnh Nghĩa tham gia phát biểu ý kiến trên một số lĩnh vực. Về quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của đất nước (Điều 7), ĐB Huỳnh Nghĩa cho rằng, thời gian qua, tuy có những bước tiến lớn trong việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và phân bổ ngân sách, nhưng việc quyết định ngân sách nói chung và phân bổ ngân sách nói riêng vẫn còn tính hình thức, chưa thật sự là thế mạnh của Quốc hội, chưa phát huy hết vai trò của cơ quan đại diện nhân dân.
Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như cơ quan thẩm tra chưa được tăng cường nguồn lực tương xứng với chức năng, nhiệm vụ; chưa có cơ chế hữu hiệu huy động, tham vấn đội ngũ chuyên gia về ngân sách; dự toán phân bổ ngân sách hằng năm còn quá nhiều việc phải bàn vì có nhiều số liệu phức tạp, lập luận mang nặng tính tự biện; ngân sách chưa phản ánh được ưu tiên của Chính phủ trong hành động của mình; chưa thể hiện những vấn đề bức xúc, nóng bỏng về kinh tế-xã hội của đất nước.
ĐB Huỳnh Nghĩa nhận định, dự thảo luật lần này sửa đổi theo hướng tăng cường vai trò của Quốc hội về ngân sách Nhà nước nhưng chưa thật sự căn bản. Do đó, ĐB đề nghị cần đổi mới các quy định về thẩm quyền quyết định ngân sách Nhà nước của Quốc hội để cơ quan đại diện cho người dân thật sự là chủ nhân phân bổ đồng tiền do người dân đóng thuế.
Muốn vậy, việc trình dự toán phân bổ ngân sách hằng năm ra Quốc hội phải kèm theo kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, thuyết minh, phản ánh những ưu tiên của quốc gia trong từng lĩnh vực.
Có như vậy, việc sử dụng ngân sách còn eo hẹp của quốc gia mới thật sự hiệu quả, tránh dàn trải, lãng phí... Đồng thời, cần tăng cường năng lực của Quốc hội trong việc thẩm tra, quyết định ngân sách. Báo cáo thẩm tra của các Ủy ban Quốc hội phải mang tính định hướng, phải chỉ ra được cho ĐBQH thấy rõ khoản nào cần phải chi, khoản nào chưa cần thiết chi và khoản nào không nên chi, chứ không nên chung chung như hiện nay.
Cần sớm xây dựng Luật trưng cầu dân ý
Về trưng cầu ý dân (Điều 19, 59), theo dự thảo luật thì thẩm quyền này thuộc về Quốc hội, việc tổ chức trưng cầu ý dân thuộc về Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhưng luật chưa quy định cơ quan nào giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện nhiệm vụ này.
Do đó, ĐB Huỳnh Nghĩa đề nghị cần xem xét lại vấn đề này, phải chỉ rõ trong luật cơ quan nào có trách nhiệm triển khai thực hiện quyết định trưng cầu ý dân của Quốc hội, cách thức thực hiện như thế nào nhằm bảo đảm tính khả thi của điều luật.
ĐB Huỳnh Nghĩa đề xuất nên giao cho Hội đồng bầu cử quốc gia giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội triển khai nhiệm vụ quan trọng này, vì hoạt động tổ chức bầu cử và tổ chức trưng cầu ý dân có điểm tương đồng nhau về bản chất và cách thức thực hiện, đều là kiểm tra sự đồng thuận của người dân về một vấn đề cụ thể của quốc gia; để tổ chức bầu cử, Hội đồng bầu cử phải thống kê, cập nhật và quản lý danh sách cử tri thường xuyên nên sẽ thuận lợi cho việc tổ chức trưng cầu ý dân và đây là một cơ quan Hiến định độc lập nên sẽ thuận lợi hơn trong việc đem lại kết quả khách quan của việc trưng cầu ý dân.
Đồng thời, ĐB đề nghị Quốc hội sớm xây dựng Luật trưng cầu ý dân nhằm quy định rõ những vấn đề nào được đưa ra trưng cầu, quy mô của các cuộc trưng cầu...
Về quyền kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm của ĐBQH (Điều 33), ĐB đề nghị cần cân nhắc, điều chỉnh thẩm quyền này cho phù hợp với thực tế hoạt động nghị trường hiện nay. Dự thảo luật quy định ĐBQH có quyền kiến nghị bằng văn bản mà chưa quy định quyền kiến nghị trực tiếp tại phiên họp toàn thể.
Đây là một trong những quyền quan trọng của ĐBQH mà hầu hết các nước đều ghi nhận. Do đó, ĐB đề nghị cần quy định quyền kiến nghị của ĐBQH nói chung không chỉ với vấn đề tín nhiệm mà đối với tất cả các vấn đề quan trọng của quốc gia. Đồng thời với việc quy định quyền kiến nghị trực tiếp của ĐBQH thì cũng cần quy định nguyên tắc, cơ chế xử lý kiến nghị đó. Vì thực tiễn ở nước ta thời gian qua cho thấy, nhiều ĐBQH đưa ra kiến nghị tại các phiên họp toàn thể nhưng việc xử lý các kiến nghị này còn hạn chế và chưa theo một quy trình cụ thể do luật định.
ĐB đề nghị cần làm rõ trường hợp nào là kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm, trường hợp nào là bỏ phiếu bất tín nhiệm. Hiến pháp đã quy định nguyên tắc kiểm soát giữa các nhánh quyền lực. Một trong những công cụ kiểm soát của quyền lập pháp đối với quyền hành pháp là bỏ phiếu bất tín nhiệm.
Nếu hành pháp cảm thấy những phê phán đối với mình không công bằng thì có thể đề nghị cơ quan lập pháp bỏ phiếu tín nhiệm. Còn trong trường hợp một ĐBQH hay một cơ quan của Quốc hội thấy rằng không thể tín nhiệm Chính phủ hoặc một thành viên Chính phủ thì kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm; quy định như vậy mới đầy đủ và bảo đảm tính khả thi.
Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội
Chiều 22-10, các ĐBQH tiếp tục thảo luận tại Hội trường về dự thảo Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi). Hầu hết ý kiến của các ĐBQH tán thành với nhiều nội dung đã được thể hiện trong Báo cáo tiếp thu giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bàn về tiêu chuẩn ĐBQH, đại biểu Đỗ Văn Đương (thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng, quy định trong dự thảo luật về tiêu chuẩn của ĐBQH còn chung chung, gần giống với tiêu chuẩn của cán bộ công chức. ĐB cho rằng, cần bổ sung quy định ĐBQH phải trung thành với lợi ích quốc gia, dân tộc và lợi ích nhân dân để khi quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước phải trên tinh thần lợi ích quốc gia, dân tộc để quyết định. Cũng theo ĐB Đỗ Văn Đương, quy định về trình độ năng lực của ĐBQH chưa cụ thể và đề nghị cần ghi rõ trong dự thảo rằng, ĐBQH phải có chính kiến, có năng lực đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân; dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Quốc hội và cử tri.
ĐB Nguyễn Thị Thanh Hòa (Bắc Ninh) đánh giá số lượng ĐBQH nữ chưa đạt tỷ lệ và giảm dần đều qua các nhiệm kỳ. Để khắc phục tình trạng này, cần bổ sung vào Điều 23 quy định tỷ lệ ĐBQH mỗi giới không quá 65% để chủ động chuẩn bị ứng cử viên. ĐB cũng đề nghị bổ sung quy định về nữ ĐBQH chuyên trách, nữ ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nữ ĐBQH trong các Ủy ban và Hội đồng Dân tộc của Quốc hội.
ĐB Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng) đánh giá các quy định về cơ chế hoạt động của ĐBQH còn nặng về hành chính, quyền hạn của ĐBQH chưa rõ ràng. ĐB đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn và bổ sung các quy định để bảo đảm tính độc lập của ĐBQH; hạn chế tình trạng hành chính hóa của ĐBQH cũng như thể hiện rõ tinh thần, tiêu chuẩn quan trọng nhất của ĐBQH là phải được cử tri tín nhiệm, tin tưởng.
Theo ĐB Huỳnh Văn Tiếp (Cần Thơ), nội dung về đại biểu Quốc hội trong dự thảo luật cần làm rõ hơn nội dung, vị trí, vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội và trách nhiệm tham gia các kỳ họp của Quốc hội. ĐB Nguyễn Tiến Sinh (Hòa Bình) đánh giá việc nâng cao chất lượng ĐBQH là cần thiết, ĐBQH phải là người nói được tiếng nói của cử tri, của nhân dân. Ông Sinh đề nghị cần quy định cụ thể, chặt chẽ tiêu chuẩn của ĐBQH để xứng đáng là người đại diện cho nhân dân trong Quốc hội.
Cũng theo ĐB Đỗ Văn Đương, ngoài những quy định chung, ĐBQH chuyên trách phải có phẩm chất, tiêu chuẩn, trình độ, năng lực cao hơn; phải từng qua thực tiễn và tinh thông nghiệp vụ về lĩnh vực chuyên trách, có kỹ năng phản biện… nếu không chất lượng thẩm tra, giám sát sẽ rất hạn chế.
Nhiều ý kiến đại biểu bày tỏ quan điểm đồng tình với dự thảo Luật quy định số lượng ĐBQH hoạt động chuyên trách ít nhất là 35% tổng số ĐBQH để phù hợp với điều kiện thực tế của Quốc hội Việt Nam hiện nay. Tỷ lệ cụ thể ĐBQH hoạt động chuyên trách ở Trung ương hay ở địa phương sẽ tùy thuộc vào yêu cầu công tác và thực tế hoạt động của Quốc hội trong từng thời gian, từng nhiệm kỳ cụ thể.
PHẠM HỮU HOA-TTXVN