Năm 1985, tôi may mắn được vào Đội tuyên truyền văn hóa cơ sở của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Nghĩa Bình (cũ) và cùng đồng đội sang thăm, phục vụ cho cán bộ chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam tại tỉnh Preah Vihear, Campuchia.
Bích Hạnh hát ở Campuchia năm 1985. |
Lần đầu tiên một cô gái trẻ măng vừa rời ghế nhà trường như tôi hiểu thế nào là chiến tranh và gian khổ, hy sinh. Giữa đường, cầu bị gãy, tất cả phải dừng lại chờ khắc phục, Trung tá Nguyễn Trọng Lư, trưởng đoàn đã tổ chức cho chúng tôi buổi phục vụ bộ đội đang chờ đợi qua cầu.
Không micro, không loa đài, chỉ với những cây đàn thùng, sáo trúc và bộ gõ đơn giản, những bài ca của chúng tôi đã làm dịu đi cơn khát, gạt những giọt mồ hôi trên vai người lính trước khi vào trận. Cả đoàn quân lặng im phăng phắc, rồi sau mỗi tiết mục cả cánh rừng như vỡ òa trong tiếng vỗ tay.
Cả người hát lẫn người nghe say sưa mà quên đi cái nắng như thiêu, làn gió thổi khô khốc và cả thời gian dài chờ đợi. Tranh thủ hỏi chuyện các chiến sĩ, tôi càng cảm phục bởi họ còn rất trẻ mà phải sống chung với những mùa khô giữa cánh rừng sâu trên đất bạn, cùng chia lửa mỗi khi vào trận, có người đã vĩnh viễn nằm lại nơi đây vì nhiệm vụ quốc tế cao cả.
Hôm đoàn chúng tôi đến phục vụ thương bệnh binh ở Bệnh xá K18, khi đồng chí phóng viên bấm máy, vì tia sáng của đèn chiếu mà một thương binh đã vùng dậy hô to “xung phong” rồi chạy quanh sân như chính mình đang ở trận địa. Chứng kiến cảnh đó, tôi đã hát trong nước mắt, lòng trào dâng nỗi cảm thương vô hạn. Mong sao tiếng hát của tôi làm vơi đi phần nào nỗi nhớ quê hương và cả nỗi đau về thể xác của các anh.
Ngày vừa hành quân vừa phục vụ, đêm mắc võng ngủ rừng, cuộc hành trình của đoàn chúng tôi kéo dài suốt một tháng với hơn 30 buổi biểu diễn. Có lúc ánh sáng là những chiếc đèn dầu, sân khấu là một sườn dốc, bờ khe, âm thanh không được mở to, có khi tôi chỉ kịp ăn vội gói mì tôm hay một bánh lương khô để kịp giờ diễn.
Một hôm, vừa diễn xong vở dân ca, một chiến sĩ đến bên tôi nói trong ngắt quãng: “Bích Hạnh à. Em cho anh xin cái nón được không em? Anh xa quê đã năm năm rồi mà chưa một lần về. Nhớ mẹ, nhớ nhà quá em ơi. Có chiếc nón của em, anh sẽ thấy mẹ anh đang ở rất gần và động viên anh trên chặng đường chiến đấu”.
Trước tình cảm chân thành, mộc mạc của anh, tôi đã tặng anh chiếc nón duy nhất mà tôi mang theo làm đạo cụ biểu diễn. Ở đây, có người xa quê lâu ngày, thư từ lúc có lúc không; bố mất không kịp về chịu tang. Có người vợ sinh hay con ốm cũng chẳng thể nào chung tay đỡ đần.
Có người ở nhà người yêu không chờ đợi được đã đi lấy chồng. Thương nhất là mỗi khi nghe tin ở quê có bão lụt, lại cả đêm không ngủ vì lo mái tranh nghèo chưa kịp sửa sang, mẹ già thân cò lặn lội ngoài đồng. Chúng tôi hiểu sự hy sinh của người lính ở chiến trường Campuchia to lớn biết chừng nào.
Có lần tôi nhập Bệnh viện Quân y 13 (Quân khu 5) vì sưng a-mi-dan. Lúc đó ở bệnh viện cũng có rất nhiều thương, bệnh binh từ chiến trường về điều trị. Trong số họ có vài người đã trò chuyện với tôi trong chuyến công tác tại Campuchia.
Mới ngày nào lành lặn, tràn đầy sức trẻ, nay gặp lại, tôi sững sờ vì một phần cơ thể của các anh đã gửi lại nước bạn. Vậy mà các anh vẫn lạc quan, vô tư, hồn nhiên kể chuyện vui như tết. Tôi xin các bác sĩ chuyển lịch mổ để tôi được đến từng phòng bệnh hát cho các anh nghe với mong muốn được phục vụ các anh thêm một lần nữa.
Có lẽ đó là lần hát đặc biệt nhất trên đời khi bệnh binh hát cho thương binh nghe. Những ngày sau mổ, chính các anh lại tận tình chăm sóc tôi thật chu đáo. Với cặp nạng gỗ, anh Hội quê ở Thanh Hóa hằng ngày chịu khó lên phòng xét nghiệm xin từng ít nước đá để tôi uống sữa đỡ bị đau.
Anh Hải chỉ còn một cánh tay vẫn hăng hái giặt khăn lau mặt cho tôi. Nghĩa cử bình dị giữa đời thường của các anh đã truyền cho tôi hơi ấm của tình đồng chí, đồng đội, niềm lạc quan và cả ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Chính các anh đã cho tôi thêm động lực, tiếp lửa cho tôi đi suốt cuộc đời quân ngũ, với tiếng hát của mình mang lại niềm vui cho đồng đội và nhân dân.
NGÔ THỊ BÍCH HẠNH
(Ban Phụ nữ Quân khu 5)