Đại tá Đồng Phú Quế, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh (CCB) phường Gia Thụy (quận Long Biên, Hà Nội) vừa dẫn đoàn CCB của phường vào thăm chiến trường xưa và dừng chân ở Đà Nẵng.
Đại tá Đồng Phú Quế (thứ ba từ phải sang) với các cựu chiến binh Hà Nội những ngày ở Đà Nẵng tháng 4-2015. |
Ông nguyên là Chính trị viên Đại đội 1, Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 38, Sư đoàn 2, Quân khu 5). Câu chuyện ông kể về những ngày tiểu đoàn đi giải phóng Trường Sa càng thấy tầm nhìn chiến lược của Đảng và quân đội ta về chủ quyền biển, đảo.
Tiểu đoàn 4 những ngày cuối tháng 3-1975. Trong đội hình Trung đoàn 38, tiểu đoàn như cơn lốc từ Quảng Nam tiến về giải phóng Đà Nẵng. Để làm chậm bước tiến công của ta, địch ném bom phá sập cầu Bà Rén và cầu Câu Lâu. Những bước chân thần tốc băng qua cầu gỗ đang cháy dở. Số còn lại được hàng trăm chiếc thuyền lớn nhỏ của nhân dân hai bên bờ ào ra chở qua sông cho kịp hành quân. Ngày 29-3, dọc hướng bờ biển, tiểu đoàn tiến vào khu vực Non Nước, làm chủ sân bay Nước Mặn rồi cùng Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 38) kiểm soát bán đảo Sơn Trà.
Đang tham gia quân quản thành phố vừa giải phóng, thì có xe chở toàn tiểu đoàn về nhận nhiệm vụ phối hợp cùng Bộ Tư lệnh Hải quân đi giải phóng Trường Sa.
CCB Đồng Phú Quế nhớ lại: Tầm 16 giờ ngày 11-4-1975, cả Tiểu đoàn 4 với chừng 300 quân dưới sự chỉ huy của Thượng úy Nguyễn Xuân Trường, Tiểu đoàn trưởng cùng với bộ phận hỏa lực của Trung đoàn 368 đã tập hợp chỉnh tề tại cảng Tiên Sa. Trước đó, một số lượng lớn lương thực, thực phẩm do ta tiếp quản kho quân sự An Đồn đã được chuyển lên tàu. Chính ủy Trung đoàn 38 Nguyễn Đức Thế có mặt. Thiếu tướng Đoàn Khuê, Phó Chính ủy Quân khu 5 (sau này là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) giao nhiệm vụ trước hàng quân: “Giải phóng xong Trường Sa, các đồng chí tiếp tục nêu cao tinh thần chiến đấu, bảo vệ đảo trong mọi tình huống”. Lời dặn dò của thủ trưởng đã theo bộ đội suốt thời gian ở Trường Sa. Sau này khi ông ra Hà Nội, tôi có gặp, nhắc lại chuyến đi ra đảo, Đại tướng vẫn còn xúc động.
Đoàn tàu vận tải 3 chiếc của Lữ đoàn 125 vừa ra khỏi cảng vài chục hải lý thì gặp cơn lốc lớn. Gió xoáy mạnh, sóng ập vào mũi tàu làm mọi người ướt sũng. Các chiến sĩ quen ở rừng nay ra biển đều say sóng, không ăn uống được gì. Cập cảng Quy Nhơn nghỉ ngơi lại sức, cả đoàn tiếp tục lên đường. Lúc này một số máy bay của chính quyền ngụy Sài Gòn vẫn còn lởn vởn trên đầu. Tàu trang bị dạng tàu đánh cá. Súng ống đều được phủ bạt. Bộ đội ở gọn trong khoang, chỉ khi qua vùng nào yên tĩnh mới lên trên hít thở khí trời.
Tầm 19 giờ ngày 13-4, tàu của hải quân ta tiếp cận đảo Song Tử Tây là đảo xa nhất. Sau 3 ngày mệt lả, chiến sĩ tưởng chừng không còn sức chiến đấu, vậy mà khi có lệnh, tất cả đều vùng dậy. Lợi dụng lúc thủy triều lên, tàu tắt máy trôi tự do dạt vào áp sát mục tiêu. Lực lượng đặc công nước hải quân dùng hàng chục xuồng cao su chở chiến sĩ tiếp cận đảo. Sau hơn một giờ vật lộn với dòng nước xoáy, với những cơn sóng lớn và mỏm san hô lởm chởm, tiểu đoàn chia làm ba mũi tấn công. Tên lính ngụy đứng gác trên nóc lô cốt, bất ngờ rọi đèn pin đúng vào đội hình.
Biết bị lộ, đơn vị nổ súng. Sáng 14-4, trận đánh bắt đầu. Hỏa lực của ta nã tới tấp vào trung tâm đảo và lô cốt chỉ huy địch. Bị đánh trực diện, địch rút về phía đông- nam đảo, tổ chức chống cự lại. 5 giờ sáng ta đã kéo cao cờ đỏ sao vàng (mang từ miền Bắc vào), trên đỉnh cột cờ, trên bia chủ quyền và các nóc hầm của địch. Trong trận đánh này, ta bắt được tên đảo trưởng cùng 32 sĩ quan và lính ngụy, thu toàn bộ quân trang, quân dụng. Có một chi tiết đáng chú ý đó là, ta vừa giải phóng đảo Song Tử Tây, vài giờ sau, có nhiều chiếc tàu lạ tiến đến muốn chiếm đảo nhưng thấy ta đã cắm cờ, chúng rút quân.
Đảo Song Tử Tây được giải phóng. Hệ thống phòng thủ trên quần đảo bị đe dọa, mấy ngày sau, Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy vội điều quân từ Vũng Tàu ra Trường Sa. Nhưng trong tình thế thất bại, bọn chúng không dám phản kích mà quay về tăng cường phòng thủ đảo Nam Yết. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh Hải quân ta, trong những ngày tiếp theo, Tiểu đoàn 4 tiếp tục cùng đơn vị phối thuộc tiến công giải phóng các đảo Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, Trường Sa Lớn. Những đảo này, số quân ngụy ở không nhiều, thấy khí thế bộ đội, chúng đều tự nguyện giao nộp vũ khí.
Để bảo vệ biển đảo, bộ đội Tiểu đoàn 4 tiếp tục bám trụ, chịu đựng thiếu thốn mọi bề, nhất là thiếu rau xanh. Ngày đó, muốn chuyển rau ra đảo thì phải huy động hàng chục xe tải chở rau từ Đà Lạt về. Tập kết cho đủ, rồi đưa ra đảo phải mất 7-8 ngày, nơi đảo xa nhất thì 10 ngày. Rau để khoang tàu nóng, chuyển sang úng, úa rất nhanh. Vậy mà vẫn là bữa tiệc xa xỉ của bộ đội. Sau bữa đầu tiên ăn cho “đã” với các món luộc, xào, nuôi quân phải muối rau vào các thùng phuy ăn dần.
Mỗi bữa, dùng nước muối dưa nấu canh cho có chất rau. Nhiều anh thiếu rau, bị kiết lỵ, táo bón. Những người lính đã từng đối mặt với đói, đau, đạn, địch những năm ở chiến trường lại động viên nhau vượt qua tất cả. Nghe thông tin trên đài bán dẫn biết miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, ai cũng muốn về quê hương chứng kiến ngày đoàn tụ nhưng vì nhiệm vụ, vẫn tiếp tục bám đảo.
Đến tháng 7-1975, Bộ Tổng Tham mưu biên chế Tiểu đoàn 4 trực thuộc Quân chủng Hải quân.
Đại tá Đồng Phú Quế nhớ lại kỷ niệm gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi về đất liền. Khoảng tháng 6-1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang ở thăm tiền phương Quân chủng Hải quân tại Nha Trang. Nghe nói có cán bộ Trường Sa vào, ông mời đến gặp. Thủ tướng hỏi han ông Quế rất kỹ về tình hình Trường Sa, những khó khăn chiến sĩ phải đối mặt và căn dặn: “Chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Các đồng chí cố gắng động viên nhau gìn giữ”.
Trở về đảm nhận trợ lý cán bộ Trung đoàn 38, Đại tá Đồng Phú Quế tiếp tục cùng đơn vị tham gia làm nghĩa vụ quốc tế ở chiến trường K, sau đó ông về thủ đô Hà Nội. Ông rất vui khi biết rằng, đã có một Tiểu đoàn 4 mới trong đội hình Trung đoàn 38. Từ chiến công ở Trường Sa, hằng năm, dù đứng chân ở địa bàn Tây Nguyên, đơn vị đều được Quân khu 5 giao huấn luyện biển đảo; hành quân vượt hàng trăm cây số về các tỉnh ven biển tổ chức diễn tập, bắn đạn thật, sẵn sàng làm nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo khi Tổ quốc cần.
40 năm đã trôi qua, nhưng kỷ niệm ngày hội quân ở cảng Tiên Sa vẫn vẹn nguyên trong tâm trí người lính Trung đoàn 38.
HỒNG VÂN