Tiếp tục chương trình làm việc kỳ họp thứ 10, sáng 26-10, các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) làm việc tại hội trường nghe báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) và thảo luận một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi). Đây là lần thảo luận cuối cùng, thống nhất các ý kiến về những vấn đề còn có quan điểm khác nhau để QH biểu quyết thông qua tại kỳ họp này.
Các ý kiến tán thành quy định trong dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi). Theo đó, tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. ĐB Huỳnh Nghĩa (Đà Nẵng) đánh giá: Quy định này của dự thảo Bộ luật đáp ứng đòi hỏi thực tiễn hiện nay, bảo đảm công dân có quyền yêu cầu tòa án bảo vệ lẽ phải và các lợi ích chính đáng của mình. Đây là căn cứ để tòa án nhận đơn, thụ lý vụ việc, giải quyết những tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội mà pháp luật chưa thể dự liệu, không để người dân tự xử lý, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội…
ĐB Huỳnh Nghĩa đề nghị dự thảo Bộ luật quy định chặt chẽ quyền khởi kiện phải đi đôi với nghĩa vụ chứng minh; đặc biệt phải cung cấp đầy đủ chứng cứ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình thì tòa án mới xem xét thụ lý. Luật cần xây dựng chế tài vật chất kèm theo để buộc đương sự phải chịu án phí trong trường hợp tòa bác đơn kiện
ĐB Nguyễn Bá Thuyền (Lâm Đồng) bày tỏ băn khoăn bởi Điều 4 dự thảo Bộ luật ghi “Quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” rất khó thực hiện. ĐB phân tích: Người dân khởi kiện, họ sẽ cho rằng mình hợp pháp, còn tòa án có lý lẽ của mình, vì hợp pháp hay không phải qua xét xử mới thấy được… Vì lo ngại này và để chặt chẽ, dễ áp dụng hơn, ĐB Bá Thuyền đề nghị chỉ ghi là quyền yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích của người dân.
Vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) nhận thấy rằng, trong khi pháp luật dân sự chưa có quy định đầy đủ để điều chỉnh được hết các quan hệ xã hội, khi có tranh chấp dân sự xảy ra mà chưa có điều luật áp dụng thì cần thiết phải có quy định cho phép tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, tập quán, tương tự pháp luật, án lệ và lẽ công bằng để thụ lý vụ việc dân sự và giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự chung do Bộ luật này quy định.
Viện KSND vẫn là cơ quan tố tụng
Thảo luận về vị trí, vai trò của Viện KSND, ĐB Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng) đánh giá dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự tiếp tục phân chia chủ thể trong quan hệ tố tụng dân sự thành 2 nhóm: cơ quan tiến hành tố tụng (nhân danh quyền lực Nhà nước để thực hiện hoạt động tố tụng) và người tham gia tố tụng (tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích của mình).
Đối với Viện KSND, dự thảo Bộ luật tiếp tục giao cho Viện kiểm sát thực hiện các thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng như: nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ, yêu cầu tòa án xác minh, thu thập chứng cứ hoặc tự mình thu thập chứng cứ; tham gia các phiên tòa, phiên họp, thẩm vấn đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa; kiến nghị, kháng nghị bản án, quyết định của tòa án; yêu cầu, kiến nghị xử lý người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật….
ĐB Trần Ngọc Vinh đánh giá: Với chức năng này cho thấy vị trí, vai trò của Viện KSND khác với chủ thể là “người tham gia tố tụng”. Vì vậy, việc xác định Viện KSND là cơ quan tiến hành tố tụng là phù hợp.
ĐB Huỳnh Nghĩa khẳng định Hiến pháp và pháp luật từ trước đến nay luôn xác định Viện KSND là cơ quan tiến hành tố tụng. Điều 107 Hiến pháp và Điều 2 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát khẳng định: Viện Kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân... Để thực hiện nhiệm vụ này, Viện KSND có trách nhiệm phát hiện, nêu rõ mọi vi phạm pháp luật của các chủ thể trong việc giải quyết vụ án; đồng thời thể hiện rõ quan điểm về việc xử lý các vi phạm đó.
Tòa án xem xét, thẩm định toàn bộ nội dung hòa giải
Chiều 26-10, các ĐBQH thảo luận tại hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi). Cho ý kiến về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, nhiều ý kiến cho rằng, để bảo đảm các bên đương sự thực hiện được nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự thì cần quy định các bên đương sự có quyền được biết các tài liệu, chứng cứ của bên kia, làm cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thảo luận về công nhận kết quả hòa giải ngoài tòa án (từ Điều 415 đến Điều 418), hầu hết ý kiến tán thành với quy định công nhận kết quả hòa giải ngoài tòa án trong dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi). Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể những loại hòa giải nào thì được tòa án công nhận và quy định chi tiết trình tự, thủ tục và giá trị pháp lý của quyết định công nhận kết quả hòa giải.
Các ĐB đánh giá thủ tục công nhận kết quả hòa giải ngoài tòa án rất quan trọng và cần thiết, phù hợp với yêu cầu thực tiễn hiện nay và thông lệ quốc tế, nhằm khắc phục tình trạng sau khi các bên đã hòa giải theo quy định pháp luật nhưng không có cơ quan nào tổ chức thi hành kết quả hòa giải đó. Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị dự thảo Bộ luật cần quy định theo hướng: trước khi công nhận kết quả hòa giải, tòa án phải xem xét, thẩm định lại toàn bộ nội dung hòa giải đó, đối chiếu với quy định pháp luật, lẽ công bằng, đạo đức xã hội; đồng thời ràng buộc trách nhiệm pháp lý của thẩm phán khi ký quyết định.
Giải trình vấn đề này, UBTVQH cho rằng, cần thiết quy định việc tòa án thụ lý giải quyết và ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, bảo đảm các bên thực hiện đúng ý chí, quyền dân sự của mình. Tòa án chỉ xem xét công nhận kết quả hòa giải các vụ việc ngoài tòa án giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân do người có thẩm quyền, tổ chức có nhiệm vụ thực hiện theo quy định của pháp luật tiến hành hòa giải (như kết quả hòa giải theo quy định của Luật Hòa giải cơ sở, Luật Thương mại, Bộ luật Lao động, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng...).
TTXVN