Đồng chí Hà Huy Tập (ảnh) sinh ngày 24-4-1906 trong một gia đình nhà nho nghèo tại làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay là xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Ngày 1-5-1938, trong khi đang đi công tác, Tổng Bí thư Hà Huy Tập bị địch bắt, sau đưa về giam tại Sài Gòn và Nghệ An rồi bị thực dân Pháp xử bắn vào ngày 28-8-1941. Hy sinh anh dũng ở tuổi 35, đồng chí Hà Huy Tập để lại tấm gương kiên trung, bất khuất, hiến dâng trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.
Với 35 tuổi đời, trải qua gần 16 năm hoạt động cách mạng, trong đó có gần hai năm giữ cương vị Tổng Bí thư của Đảng (tháng 7-1936 đến tháng 3-1938), với nhiều bí danh và tên gọi khác nhau, đồng chí Hà Huy Tập đã có nhiều chủ trương, quyết sách cùng với tập thể Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo cách mạng nước ta vượt qua nhiều khó khăn, thử thách.
Đồng chí Hà Huy Tập thuộc lớp cán bộ tiền bối tiêu biểu của Đảng ta, là một trong số ít đồng chí được đào tạo tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Sau Cao trào 1930 - 1931 và Xô Viết Nghệ - Tĩnh, cách mạng Việt Nam lâm vào thoái trào, đồng chí được Quốc tế Cộng sản cử về nước để khôi phục phong trào.
Đồng chí đã đưa ra những chủ trương đúng đắn trong thời kỳ vận động dân chủ (1936 - 1939). Trong quá trình hoạt động và trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Hà Huy Tập đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng và có nhiều đóng góp to lớn đối với Đảng, với quê hương, đất nước. Sự nghiệp cách mạng và những cống hiến của ông được nhìn nhận ở 3 điểm chính.
Một là, đồng chí Hà Huy Tập là một nhà lãnh đạo cách mạng tài năng của Đảng, không ngừng chăm lo xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Hà Huy Tập là người chủ công xây dựng các văn kiện và chủ trì Đại hội Đảng năm 1935.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 7-1936, đồng chí Hà Huy Tập được phân công về nước tổ chức lại Ban Chấp hành Trung ương và khôi phục tổ chức của Đảng. Ngay sau đó, đồng chí đã sáng suốt quyết định chuyển trụ sở của Đảng từ nước ngoài về xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định. Quyết định này có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện trong việc đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp, thống nhất của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của phong trào cách mạng lúc đó.
Tiếp đến, tại Bà Điểm, đồng chí liên tục chủ trì 3 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, đưa ra nhiều quyết sách quan trọng. Đó là: Hội nghị tháng 3-1937, thống nhất các tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, xác định những chủ trương mới thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển. Hội nghị tháng 9-1937 thông qua một số quyết định quan trọng về việc thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương, phát triển cơ sở Đảng trong các thành thị và đồn điền, kết hợp các hình thức đấu tranh công khai và bán công khai...
Nhờ vậy, chỉ trong một năm, Đảng ta từ chỗ bị địch khủng bố trắng đã thành lập lại Ban Chấp hành Trung ương và Ban Thường vụ Trung ương. Hội nghị tháng 3-1938 phân tích thái độ của các đảng phái, các tổ chức chính trị ở Đông Dương, công tác quần chúng, công tác tổ chức và lãnh đạo của Đảng, quyết định đổi tên Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương thành Mặt trận Thống nhất dân chủ Đông Dương.
Hai là, đồng chí Hà Huy Tập là một nhà lý luận sắc sảo, một cây bút chiến đấu trên mặt trận tư tưởng và chính trị của cách mạng Việt Nam, tổ chức và chỉ đạo xuất bản sách, báo, tạp chí của Đảng. Qua thực tiễn trong phong trào cách mạng sôi động của giai cấp công nhân và toàn dân tộc, bằng trí tuệ nhạy cảm, sự nhạy bén chính trị và ngòi bút sắc bén, đồng chí Hà Huy Tập thể hiện là một nhà lý luận chính trị sắc sảo, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động báo chí, xuất bản.
Đồng chí Hà Huy Tập là người sáng lập, tổng biên tập của nhiều tờ báo, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng, tích cực nghiên cứu lịch sử Đảng. Ở tuổi 23, đồng chí đã hoàn thành cuốn Sơ thảo lịch sử phong trào Cộng sản ở Đông Dương, tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm đầu do Đảng lãnh đạo. Ngoài ra, đồng chí còn viết khoảng 25 tác phẩm khác.
Bằng ngòi bút đầy tính chiến đấu dưới nhiều bút danh khác nhau, đồng chí Hà Huy Tập đã viết nhiều bài đăng báo kiên quyết vạch trần bộ mặt thật, phê phán quan điểm phản động của các phần tử Trôtxkít; tuyên truyền, kiên định bảo vệ quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Các tác phẩm Vì một Mặt trận nhân dân Đông Dương, Vì sao cần sự ủng hộ Mặt trận bình dân bên Pháp... của đồng chí là những tác phẩm lý luận chính trị của Đảng có giá trị, góp phần chỉ đạo cách mạng trong thời kỳ vận động dân chủ. Tư duy và sự nhạy bén chính trị của đồng chí Hà Huy Tập còn thể hiện ở quan điểm dân tộc, giai cấp, coi đây là một điều kiện cơ bản dẫn tới mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Ba là, đồng chí Hà Huy Tập là một tấm gương của người chiến sĩ Cộng sản anh dũng, kiên trung, bất khuất, chí công vô tư, hy sinh trọn đời vì nước, vì dân. Từ một trí thức yêu nước, đi theo con đường cách mạng và trở thành Tổng Bí thư của Đảng ở tuổi 30, đồng chí Hà Huy Tập đã tỏ rõ năng lực dự báo tình hình, nắm bắt thời cơ, tận dụng mọi điều kiện thuận lợi cùng với các cơ quan lãnh đạo của Đảng ta lúc đó đưa ra những quyết sách phù hợp; đồng thời, trực tiếp chỉ đạo các hoạt động của Đảng, biến thời cơ thành hiện thực, dấy lên cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, hòa bình và chống chiến tranh đế quốc ở nước ta những năm 1936-1939.
Trong hoạt động cách mạng, đồng chí đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, chấp nhận mọi thử thách, sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng Cộng sản cao đẹp, vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Đối mặt với nhiều án tù của thực dân đế quốc, trong đó có án tử hình, thường xuyên bị kẻ thù rình rập, bao vây, khống chế cả về vật chất và tinh thần, thậm chí bị giam cầm, tra tấn dã man, nhưng đồng chí Hà Huy Tập vẫn kiên trung, bất khuất, giữ vững niềm tin và ý chí chiến đấu của người Cộng sản. Đồng chí Hà Huy Tập đã anh dũng hy sinh trước mũi súng tàn bạo của kẻ thù ở tuổi 35 với lời nhắn gửi: “Hãy xem tôi như người còn sống” đã thể hiện niềm tin mãnh liệt, khát vọng cống hiến, chiến đấu cho lý tưởng cao cả của Đảng và dân tộc.
Cuộc đời hoạt động cách mạng oanh liệt của đồng chí Hà Huy Tập tuy ngắn ngủi nhưng những đóng góp của đồng chí cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta và dân tộc ta là rất quan trọng và to lớn. Sự nghiệp cách mạng vẻ vang của đồng chí đã để lại cho chúng ta bài học vô cùng quý giá về lý tưởng Cộng sản, về tinh thần học tập, rèn luyện, phấn đấu không ngừng, về ý chí chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc, ấm no của nhân dân.
H.A
(Tổng hợp theo tài liệu của Ban Tuyên giáo Thành ủy)