.

Từ bài học 50 năm trước

.

Tròn nửa thế kỷ trước - năm 1966 - một năm có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử cuộc kháng chiến trường kỳ của Tổ quốc. Năm 1966, khi Giôn-xơn liều lĩnh đưa 30 vạn quân viễn chinh vào miền Nam và tung hàng ngàn phản lực liên tục đánh phá miền Bắc, cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam đứng trước một thách thức có ý nghĩa sống còn. Cả thế giới nhìn về Việt Nam, với câu hỏi đầy lo âu: Liệu Việt Nam có dám đánh không; có dám đương đầu với một đối phương hùng mạnh nhất thế giới không?

Trả lời câu hỏi ấy, ở miền Nam đã diễn ra nhiều trận đánh lớn như trận Bầu Bàng, trận Dầu Tiếng… khiến đối phương thiệt hại rất nặng nề.

Để chặn đà tiến công của quân ta từ xa, không quân Mỹ dồn dập oanh kích mạng lưới giao thông, trong đó tuyến 12A - chặng đường hiểm yếu vượt Trường Sơn qua đèo Mụ Giạ - bị đánh phá ác liệt nhất, vì khi đó đây là tuyến độc đạo có thể đưa xe cơ giới vượt Trường Sơn vào Nam (đường 20 “Quyết Thắng” đến tháng 7-1966 mới thông xe)…

Lúc đó, tôi đang là cán bộ bảo đảm giao thông ở đây, chỉ biết sẵn sàng xông vào nơi đầy bom đạn cùng với đồng đội, chứ chưa hình dung công việc của mình góp phần quan trọng trả lời câu hỏi đầy lo âu của bạn bè khắp thế giới. Quả là người ngoài cuộc khó hình dung đội quân giữ đường chỉ có cuốc xẻng, khi “cấp cứu” thì có thêm chiếc máy ủi và vài tạ thuốc nổ, lại có thể đương đầu với đối phương giàu đô-la và vũ khí hiện đại nhất thế giới.

Ngày 12-4-1966, chúng tung “át chủ bài” B.52 đánh đoạn từ Bãi Dinh lên đèo Mụ Giạ. Trận ngày 12-4 có ý nghĩa lịch sử vì đây là lần đầu B.52 đánh miền Bắc. Có lẽ vì thế, sau trận này, Bác Hồ liền gọi điện vào Quảng Bình hỏi thăm tình hình. Cũng do đài phương Tây đưa tin phóng đại rằng “B.52 đã mở đợt oanh kích đọan đường dưới chân đèo Mụ Giạ, phá hủy cả chục km, nhanh nhất phải mất 10 ngày mới sửa xong”. Thực ra, trận B.52 này không làm ai thương vong, việc khai thông đường còn dễ hơn trận bom nổ chậm đầu tiên ở Cha Lo, nên cả công trường vẫn bình tĩnh. Ngày 27-4, pháo đài bay B.52 dội bom lần thứ hai dưới chân đèo Mụ Giạ nhưng chẳng ăn thua gì…

Cho đến giữa tháng 6-1966, không quân Mỹ quyết định đánh dứt điểm đường 12A ở nơi hiểm yếu nhất là km21, một đoạn đường đi men vách núi cao, một bên vực sâu, bị đứt không thể mở đường tránh, xung quanh lại không tìm được vị trí đặt pháo cao xạ, khác hẳn địa thế ở ngã ba Đồng Lộc hay Truông Bồn là những nơi rất dễ mở đường tránh và bố trí lực lượng phòng không bảo vệ. Nói cách khác, tại km21, “ta” ở cái thế vô cùng hiểm nghèo. Cuộc chiến đấu bi tráng ở đây (về sau gọi là “Đồi 37”, vì ngày 3-7-1966, cả một tiểu đội cảm tử Thanh niên xung phong 759 anh hùng bị vùi lấp) đã được nhiều sách báo, phim ảnh nói đến. Trên đoạn đường này, ngày 18-6-1966, đúng lúc tôi từ đèo Mụ Giạ về đại đội Thanh niên xung phong 759, phản lực  F.105 hết tốp này đến tốp khác lao đến ném bom quanh mình đến mấy lần. Ngày đó, nếu như tôi chậm chân trong tích tắc hay những chùm bom đi lệch vài tấc thì tôi đã mãi mãi ở tuổi… 27.

Tôi nhắc kỷ niệm nửa thế kỷ trước trên Trường Sơn với tâm thế của “người trong cuộc” - một con người bình thường nhất nhưng đã trải qua nhiều năm ở nơi “mũi tên hòn đạn”- chỉ để muốn nói rằng, vũ khí bom đạn - kể cả B.52, cũng không phải là thứ có uy lực toàn năng có thể đè bẹp được mọi thứ, càng không thể buộc cả một dân tộc cúi đầu!

Riêng trên đường 12A, gần 2.000 chiến sĩ (kể cả lực lượng công binh vừa tăng cường) kiên trì bám trụ, nên con đường đứt rồi lại nối. Có thể nói là một thế trận giằng co, nhưng các chiến sĩ, dù chuyện chết chóc xảy ra thường xuyên, vẫn lạc quan, tin ngày chiến thắng sẽ đến.

Cùng với những chiến thắng vang dội trên chiến trường miền Nam trong mùa khô 1965-1966, tinh thần ngoan cường, dám chịu hy sinh của đội quân giữ đường Trường Sơn trong năm 1966, đã là những bằng chứng hiển nhiên để đại tướng Nguyễn Chí Thanh (với bút danh “Trường Sơn”) viết liền mấy bài báo nổi tiếng trong tháng 5 và 6-1966, khẳng định chúng ta “dám đánh” “tin chắc” sẽ thắng! Và chỉ một thời gian ngắn sau mấy bài báo của đại tướng, ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố “Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước”, trong đó dòng chữ vàng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” trở thành khẩu hiệu thiêng liêng của cả dân tộc, thành lời thề của chiến sĩ trước khi vào trận quyết chiến và vẫn có ý nghĩa thời sự đến tận hôm nay.

Cũng thật có ý nghĩa trước tình thế của đất nước ngày hôm nay, khi chúng ta đọc lại bài báo viết từ nửa thế kỷ trước của đồng chí Nguyễn Chí Thanh: “…Nếu lúc đó chúng ta do dự một tí, lừng khừng một tí thì trước hết, trận địa tư tưởng của quân và dân ta có nguy cơ bị chọc thủng và từ đó các trận địa khác cũng có nguy cơ bị lấn dần và đẩy lùi, đối phương sẽ lấn đất và thắng điểm từ hiệp đầu…”.

Đất nước ta bước vào mùa Xuân 2016, bên cạnh những kế hoạch làm ăn lớn, những đổi mới về quản lý kinh tế để thích hợp với tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình Biển Đông nóng rực với cụm căn cứ những sân bay, công trình quân sự khéo ngụy trang mà Trung Quốc vừa xây trên các hòn đảo “nhân tạo” bồi đắp từ những bãi đá ở Trường Sa mà họ chiếm đóng của Việt Nam. Hơn thế, Trung Quốc còn mang tên lửa, máy bay phản lực, ra-đa dàn trận trên vùng đảo Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng đây là một tình thế cực kỳ nguy hiểm cho việc bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ Việt Nam.

Chúng ta cần một sự “trả lời” đanh thép như 50 năm trước, quyết không thể “lừng khừng một tí” để  đối phương “sẽ lấn đất và thắng điểm từ hiệp đầu…”. Thế cuộc nay đã khác xưa, sự “trả lời” không phải bằng súng đạn mà bằng ý chí ngẩng cao đầu, với lòng tự trọng và tự tin vào chính nghĩa, vào sức mạnh đoàn kết toàn dân cộng với sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong đấu tranh bằng ngoại giao, pháp lý… chúng ta nhất định bảo vệ được Tổ quốc thiêng liêng của mình.

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ nửa thế kỷ trước, một lần nữa lại vang vọng, nhắc nhủ chúng ta hãy sáng suốt, vững tin trong sự nghiệp bảo vệ từng tấc đất của cha ông để lại.

Nguyễn Khắc Phê

;
.
.
.
.
.