.
55 NĂM ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN (23-10-1961 - 23-10-2016)

Con đường huyền thoại

.

Đầu năm 1961, Bác Hồ và Bộ Chính trị chủ trương chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển. Trung ương chỉ thị cho các tỉnh ven biển miền Nam tìm cách đưa thuyền ra miền Bắc nhận vũ khí và nghiên cứu tình hình trên biển. Thực hiện chỉ thị của Bác và Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Tiểu đoàn 603 vận tải đường biển, lúc đầu với tên gọi “Tập đoàn đánh cá sông Gianh” (tiền thân của Đoàn 759, đoàn tàu không số sau này).

Tàu không số vượt đường Hồ Chí Minh trên biển. (Ảnh tư liệu)
Tàu không số vượt đường Hồ Chí Minh trên biển. (Ảnh tư liệu)

Lúc đầu Đoàn 603 đặt cơ sở tại thôn Thanh Khê, xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Cán bộ, chiến sĩ hầu hết là số anh em miền Nam tập kết ra Bắc được điều động về. Nhiệm vụ trước mắt là đóng thuyền gỗ, mua ngư, lưới cụ, trang bị cần thiết, ngày ngày ra khơi đánh cá, rèn luyện làm quen sóng gió, hôm nào ở bến thì học tập chính trị, khí tượng thủy văn, học bao gói che đậy hàng hóa sao cho không bị ướt, han ghỉ... Nhiệm vụ tuyệt mật nhưng anh em đoán rằng mình sắp được vào Nam nên rất hăng say phấn khởi; bởi vì bao năm tháng xa quê hương, sống trên miền Bắc, mặc dù được Đảng, Nhà nước, quân đội và bà con miền Bắc hết sức quan tâm nhưng vẫn tâm trạng “ngày Bắc, đêm Nam” nên luôn sẵn sàng chờ lệnh. Và niềm mơ ước đã đến, đúng vào đêm 30 Tết, nhằm ngày 16-1-1961, gió mùa đông bắc khá mạnh, được lệnh Quân ủy Trung ương, chiếc thuyền gỗ đầu tiên chở 5 tấn vũ khí rời cảng Sông Gianh bí mật đưa vũ khí vào Liên khu 5. Biển động rất mạnh, sau mấy ngày vật lộn với sóng gió, thuyền đến được vùng biển Đà Nẵng, gặp cơn lốc mạnh làm chìm tàu, một số đồng chí hy sinh, còn lại bơi vào bờ, một số bị địch bắt nhưng không khai nên bí mật của con đường chưa bị lộ.

Tình thế thực sự khó khăn trước yêu cầu chi viện miền Nam đang đòi hỏi. Thực hiện chỉ thị của Trung ương giữa năm 1961, các tỉnh Bà Rịa, Bến Tre, Trà Vinh, Rạch Giá, Cà Mau lần lượt đưa được 5 thuyền gỗ vượt biển ra Bắc để nhận vũ khí. Nhiều thuyền hành trình vô cùng vất vả phải qua tận Hồng Kông, Hải Nam rồi mới về miền Bắc. Chỉ huy các thuyền có các đồng chí Bông Văn Dĩa, Lê Văn Thanh, Đỗ Viết Thắng và 17 đồng chí khác vinh dự được đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng gặp gỡ, thăm hỏi sức khỏe và hỏi tình hình ở miền Nam. Đánh giá tầm quan trọng của nhiệm vụ và để khen ngợi các anh em, đồng chí nói: “Trước giặc Pháp thua ta cũng vì những chiếc xe đạp thồ, nay Mỹ-ngụy cũng thua ta từ những chiếc thuyền gỗ này”.

Sau 5 thuyền vượt biển từ nam ra bắc thành công, để kịp thời chi viện cho miền Nam, ngày 23 tháng 10 năm 1961, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Đoàn 759 vận tải biển từ cơ sở Tiểu đoàn 603 và 20 cán bộ miền Nam vừa vượt biển ra Bắc. Nhiệm vụ tập trung chủ yếu mua sắm tàu thuyền phương tiện, trang bị, huấn luyện chính trị, chuyên môn, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ vận tải chi viện cho chiến trường miền Nam với phương châm: Hết sức khẩn trương, tuyệt đối giữ bí mật, hoạt động trong vùng địch kiểm soát nên phải có tinh thần độc lập tác chiến rất cao, thực hiện lâu dài cho đến ngày thống nhất đất nước.

Thời gian đầu, đoàn ở Hà Nội để được sự chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng mà đặc trách là đồng chí Thứ trưởng, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam Trần Văn Trà. Các đội đều ở riêng biệt, độc lập từng nhà “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Khi nhận nhiệm vụ, chỉ có đội trưởng - chính trị viên đi gặp cấp trên, còn anh em chỉ vận hành theo mệnh lệnh của đội trưởng. Sau một thời gian chuẩn bị, đêm mùng 8 tháng 4 năm 1962, chiếc thuyền gỗ do Bông Văn Dĩa làm thuyền trưởng vượt biển vào Nam làm nhiệm vụ trinh sát mở đường. Sau 10 ngày vất cả căng thẳng, đến 18-4, thuyền đến bến Gành Hào an toàn.

Sau khi chuyến thuyền trinh sát mở đường thắng lợi, Đoàn 759 liên tiếp tổ chức các thuyền của Đội 1 (gọi là Phương Đông I) rồi thuyền của Đội 2 (Phương Đông II), thuyền của Đội 4 (Phương Đông IV) và Phương Đông V... lần lượt từ các bến trên miền Bắc bí mật vượt biển mang theo hàng chục tấn vũ khí vào chi viện cho miền Tây Nam Bộ, đáp ứng kịp thời vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang các vùng giải phóng sau lưng địch, phát triển lực lượng đánh địch mở rộng vùng giải phóng.

Đầu năm 1964, tình hình cách mạng miền Nam phát triển, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ vận tải chi viện đường biển cho Bộ Tư lệnh Hải quân đảm nhiệm và quyết định đổi tên Đoàn 759 thành Đoàn 125 vận tải biển. Lực lượng tàu thuyền lúc này được tăng cường, nhiều anh em quê miền Bắc được lựa chọn về Đoàn để làm nhiệm vụ đặc biệt. Để chỉ đạo trực tiếp, kịp thời, Đoàn chuyển về cảng bến Động, Thủy Nguyên, Hải Phòng, được chọn làm đặc trách vận tải chi viện miền Nam.

Thời gian này, hàng chục con tàu không số được đóng mới to hơn, sức chở từ 50 tấn đến 100 tấn, tốc độ nhanh, sức chịu đựng sóng gió tốt, có thể đi biển xa đến hải phận quốc tế. Vì vậy, từ năm 1962 đến 1965, những con tàu không số đã bí mật vận chuyển được 90 lượt, đưa dược 4.000 tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men và nhiều cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội vào chi viện cho chiến trường, góp phần cùng quân và dân miền Nam đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ-ngụy.

Cuối năm 1964, đầu năm 1965, tình hình trở nên bất lợi. Đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh cục bộ, mở rộng đánh phá ra miền Bắc. Mỹ đã tập trung số lượng hải quân lớn nhất của Hạm đội 7 đến Việt Nam gồm 65 tàu chiến và tàu đổ bộ, 50% số tàu tuần dương khu trục, 42% số tàu sân bay, điều này khiến cho con đường vận tải bí mật của những con tàu không số của ta hết sức khó khăn. Đặc biệt, khi chiếc tàu 134 do thuyền trưởng Lê Văn Thêm, chính trị viên Phan Văn Bảng chỉ huy bất ngờ luồn lách đưa 100 tấn vũ khí vào vịnh Vũng Rô, tỉnh Phú Yên.

Sau khi bốc xếp ngụy trang hàng hóa xong, tàu chưa kịp quay ra thì bị địch phát hiện, vây ráp đánh phá. Anh em vừa chiến đấu, vừa đánh lạc hướng, cất giấu hàng hóa rồi hủy tàu, rút lên bờ về căn cứ, nhưng bí mật về con đường vận tải đường biển của tàu không số đã bị lộ. Do đó, Hạm đội Mỹ đã báo động cho tất cả các lực lượng tàu của chúng triển khai kế hoạch ngăn chặn và điều động thêm tàu chiến, lập thêm các duyên đoàn hải quân ngụy, lắp đặt thêm các trạm ra-đa đối hải, tăng thêm máy bay trinh sát, tạo thành một thế trận phong tỏa dày đặc từ vùng biển giới tuyến 17 đến Cà Mau, từ vùng tiếp giáp hải phận quốc tế đến các cửa vịnh sông ngòi kênh rạch miền Nam. Chúng phân chia thành các tuyến giữa Hải quân Mỹ, ngụy, quyết ngăn chặn con đường tiếp tế của ta từ hướng biển.

Càng khó khăn càng phải tìm cách khắc phục, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Quân ủy Trung ương: “Chỉ cần một nửa số chuyến đi vào được bến là thắng lợi...”, vì một con tàu với 10 người, thời gian 20 ngày là đưa được mấy chục tấn vũ khí vào chiến trường bằng 1.500 người gùi hàng trên đường Trường Sơn 5 tháng. Vì vậy, từ năm 1965 đến năm 1972, những con tàu không số vẫn tiếp tục vượt biển làm nhiệm vụ vận chuyển chi viện cho miền Nam trong điều kiện hết sức khó khăn ác liệt, hiểm nguy.

Gần như thời gian này qua giới tuyến 17 là gặp địch nhưng các anh luôn mưu trí, dũng cảm, tìm cách lừa địch để vượt qua. Nhiều chuyến đi phải quay lại, nhiều chuyến phải qua nước bạn, ra hải phận quốc tế đợi thời cơ hàng tháng trời. Có lần tàu ta bị địch vây ráp quá đông, cuộc chiến đấu không cân sức. Anh em đã chiến đấu đến người cuối cùng rồi lao thẳng tàu ta vào tàu địch, anh dũng điểm hỏa bộc phá hàng trăm ký để tiêu diệt tàu địch và chấp nhận hy sinh.

Có một thời gian Mỹ-ngụy phong tỏa gắt gao, ta gặp nhiều tổn thất. Bộ Tư lệnh Hải quân xin ý kiến Quân ủy Trung ương cho phép thay đổi phương thức vận chuyển từ bí mật sang bán công khai và hợp pháp. Được Đại tướng Võ Nguyên Giáp đồng ý, những cán bộ, chiến sĩ tàu không số quê miền Nam, có kinh nghiệm được chuyển sang sử dụng những chiếc thuyền gỗ đóng ở miền Bắc nhưng theo kiểu thuyền đánh cá của ngư dân Nam bộ, gắn biển đăng ký các tỉnh miền trong. Bí mật cất giấu vũ khí, giả làm ngư thuyền hoặc thương thuyền, vượt ra hải phận quốc tế, rồi trà trộn vào ngư trường đánh bắt của ngư dân miền trong, chờ lúc thuận lợi cập bến đưa vũ khí vào vùng giải phóng. Nhờ vậy, từ năm 1965 đến 1972, ta tổ chức hàng trăm lượt vận chuyển được hàng chục ngàn tấn vũ khí, đạn dược và nhiều cán bộ, chiến sĩ trong đó có một số cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, Quân đội vào Nam, ra Bắc để lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975, những con tàu không số tiếp tục nhận mệnh lệnh vận chuyển quân vào chiến trường bằng đường biển. Đặc biệt, nhiều tàu được lệnh tiếp tục vượt biển đưa các đội đặc công của Hải quân và Quân khu 5 ra Cù Lao Thu và quần đảo Trường Sa để phối hợp với toàn chiến dịch lần lượt đánh chiếm, làm chủ hoàn toàn đảo Cù Lao Thu và các đảo thuộc quần đảo Trường Sa do hải quân ngụy chiếm giữ, góp phần vào cuộc tổng tấn công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước ngày 30-4-1975.

Suốt chiều dài cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, đoàn tàu không số đã lập nên những thành tích to lớn: Huy động hơn 1.800 lượt chiếc tàu thuyền, đi hơn 3.000.000 hải lý, khắc phục hàng ngàn quả thủy lôi, vận chuyển hơn 150.800 tấn vũ khí và hàng chục ngàn lượt người. Trực tiếp chiến đấu với hàng trăm lượt tàu, hàng ngàn máy bay, bắn chìm, bắn trọng thương 10 tàu và nhiều máy bay của Mỹ-ngụy.

PHAN VĂN CÚC

;
.
.
.
.
.