Ủy nhiệm thu thuế qua bưu điện: Tăng tiện ích cho người nộp thuế

.

Sau gần 2 năm triển khai công tác ủy nhiệm thu thuế (UNTT) tại 4 quận, huyện: Hải Châu, Ngũ Hành Sơn, Thanh Khê và Hòa Vang đã đạt được kết quả bước đầu, tỷ lệ thu bình quân đạt trên 94%, riêng địa bàn Ngũ Hành Sơn do có một số đặc thù nên tỷ lệ thu còn thấp (trên 85%). Công tác UNTT góp phần cải cách hành chính, tiết kiệm thời gian, công sức của người nộp thuế; đồng thời tiết kiệm chi phí, thời gian và nhân lực cho ngành thuế, giảm thiểu sự tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ thuế và người nộp thuế, tránh rủi ro và tiêu cực tiềm ẩn.

Việc triển khai ủy nhiệm thu thuế góp phần tạo thuận lợi cho người nộp thuế, minh bạch, tránh tiềm ẩn rủi ro. (Ảnh chụp tại Chi cục Thuế quận Hải Châu)
Việc triển khai ủy nhiệm thu thuế góp phần tạo thuận lợi cho người nộp thuế, minh bạch, tránh tiềm ẩn rủi ro. (Ảnh chụp tại Chi cục Thuế quận Hải Châu)

Từ ngày 1-12 tới, 3 quận còn lại gồm Sơn Trà, Cẩm Lệ và Liên Chiểu sẽ triển khai công tác UNTT. Ông Dương Đình Hạng, Chi cục phó Chi cục Thuế quận Sơn Trà cho biết, đơn vị đã ký hợp đồng với Bưu điện 3 về UNTT, đồng thời rà soát việc lập bộ thuế, chốt nợ thuế cần thu để bàn giao cho đơn vị nhận ủy nhiệm thu. Hiện nay, trên địa bàn quận Sơn Trà có 3.428 hộ kinh doanh cá thể nộp thuế khoán hằng tháng với số thuế phải thu là 1,729 tỷ đồng cùng với 800 triệu đồng tiền thuế phát sinh trên hóa đơn. “Đây là chủ trương chung của Tổng cục Thuế, chúng tôi đã chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, thủ tục cần thiết để công tác UNTT được triển khai hiệu quả. Ngoài báo cáo lên UBND quận kế hoạch thực hiện, Chi cục Thuế còn phối hợp với Đài Truyền thanh quận tổ chức tuyên truyền để người dân biết và nghiêm túc chấp hành chủ trương này”, ông Hạng cho hay.

Trong khi đó, tại Chi cục Thuế quận Liên Chiểu, công tác bàn giao, ký kết hợp đồng với Bưu điện 2 để triển khai UNTT đã hoàn tất, bảo đảm đến ngày 1-12 sẽ triển khai. Ông Nguyễn Sắc, Chi cục trưởng Chi cục Thuế quận Liên Chiểu thông tin, hiện trên địa bàn có 1.557 hộ kinh doanh có kê khai nộp thuế với số thuế lập bộ phải nộp hằng tháng trung bình 850 triệu đồng. Tính đến ngày 25-10, tổng số thuế đã thu của hộ kinh doanh theo lập bộ và phát sinh trên hóa đơn là 11,555 tỷ đồng. Ông Sắc nhấn mạnh: “Số thu từ hộ kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách toàn quận, đây cũng là lĩnh vực dễ gây ra tình trạng thất thu thuế lớn nếu không kiểm soát chặt chẽ. Việc triển khai UNTT qua bưu điện không chỉ bảo đảm thuận lợi, minh bạch cho người nộp thuế, mà còn góp phần giảm áp lực cho đội ngũ cán bộ thuế vốn khá mỏng ở cơ sở”.

Công tác UNTT qua bưu điện được UBND thành phố cùng ngành thuế Đà Nẵng chỉ đạo triển khai thí điểm từ đầu năm 2016 tại địa bàn quận Hải Châu và huyện Hòa Vang, sau đó mở rộng ra các quận Thanh Khê và Ngũ Hành Sơn. Đến cuối quý 4-2017 sẽ triển khai ở 3 quận còn lại gồm Liên Chiểu, Sơn Trà và Cẩm Lệ.

Sau gần 2 năm triển khai UNTT, bà Nguyễn Thị Khánh Nga, Giám đốc Bưu điện Đà Nẵng cho biết, công tác này gia tăng tiện ích cho người nộp thuế thông qua việc đa dạng hình thức nộp như nộp thông qua các phương thức điện tử, nộp tại địa chỉ đăng ký, hoặc tại quầy giao dịch của bưu điện, hoặc tại các điểm thu di động… Qua đó, tiết kiệm thời gian, công sức của người nộp thuế, thực hiện nộp thuế nhanh chóng, dễ dàng; đồng thời tiết kiệm chi phí, thời gian và nhân lực cho ngành thuế, giảm thiểu sự tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ thuế và người nộp thuế, tránh các rủi ro, tiêu cực tiềm ẩn; đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công, cơ sở vật chất, công nghệ thông tin của Bưu điện Đà Nẵng cơ bản đáp ứng được yêu cầu về UNTT. Đơn vị nhận UNTT đã có biện pháp đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin và đa dạng các phương pháp thu nộp thuế trong việc thực hiện UNTT; đôn đốc thu nợ bằng điện thoại, tin nhắn, từng bước hướng đến thực hiện chứng từ điện tử trong thu thuế. Tuy nhiên, cũng phát sinh những khó khăn, chẳng hạn với các địa bàn có số tiền thuế thấp như Ngũ Hành Sơn, Hòa Vang thì việc thu rất khó, thù lao thu thuế cho cán bộ còn thấp (chỉ có 1,5% trên số tiền thu được).

Bài và ảnh: HOÀNG LINH

;
.
.
.
.
.