Tạo chuyển biến cơ bản trong công tác dân số

.

Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII  nêu rõ các mục tiêu đề ra cho công tác dân số đến năm 2030 như sau: Duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), quy mô dân số 104 triệu người. Giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng; 50% số tỉnh đạt mức sinh thay thế; mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại; giảm 2/3 số vị thành niên và thanh niên có thai ngoài ý muốn. Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc có dưới 10.000 người, đặc biệt là những dân tộc có rất ít người. Tỷ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống; tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đạt khoảng 22%; tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên đạt khoảng 11%; tỷ lệ phụ thuộc chung đạt khoảng 49%. Tỷ lệ nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90%; giảm 50% số cặp tảo hôn, giảm 60% số cặp hôn nhân cận huyết thống; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 bệnh bẩm sinh phổ biến nhất. Tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm; 100% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế, được quản lý sức khỏe, được khám, chữa bệnh, được chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung. Chiều cao người Việt Nam 18 tuổi đối với nam đạt 168,5cm, nữ đạt 157,5cm. Chỉ số Phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm 4 nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Tỷ lệ dân số đô thị đạt trên 45%. Bố trí, sắp xếp dân cư hợp lý ở vùng biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Bảo đảm người di cư được tiếp cận đầy đủ và công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản. 100% dân số được đăng ký, quản lý trong hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư thống nhất trên quy mô toàn quốc.

Mít-tinh kỷ niệm nhân Ngày Dân số Việt Nam 26-12-2017.
Mít-tinh kỷ niệm nhân Ngày Dân số Việt Nam 26-12-2017.

Mục tiêu của Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện nghị quyết xác định rõ các nội dung, nhiệm vụ chủ yếu để các cấp, các ngành xây dựng chương trình hành động, tổ chức triển khai; kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW; đồng thời, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, hành động của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, của cả hệ thống chính trị và nhân dân đối với công tác dân số trong tình hình mới; khắc phục những hạn chế, tồn tại trong công tác dân số thời gian qua và góp phần phát triển đất nước nhanh và bền vững... Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, bên cạnh việc triển khai đồng bộ các giải pháp như: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp; hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số; phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số; bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số; kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ dân số... thì công tác tuyên truyền, vận động người dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân số là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Trong đó, tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ hai con” để ổn định quy mô dân số và bảo đảm quyền và trách nhiệm trong việc sinh con và nuôi dạy con tốt, nâng cao nhận thức, thực hành về bình đẳng giới, chuyển đổi hành vi nhằm giảm tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. Phát triển mạng lưới, nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấn, khám sức khỏe trước hôn nhân; dịch vụ tầm soát, chẩn đoán, điều trị sớm một số bệnh, tật trước sinh, sơ sinh và hỗ trợ sinh sản... Trong chương trình hành động, Chính phủ đã nhấn mạnh: đối với ngành y tế cần phải đổi mới phương thức cung cấp, đưa dịch vụ tới tận người sử dụng; đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt công nghệ y - sinh học, công nghệ thông tin trong triển khai và quản lý dịch vụ dân số.

Công tác truyền thông, giáo dục về dân số cũng cần phải đổi mới toàn diện cả nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản, hình thành kiến thức và kỹ năng về dân số, sức khỏe sinh sản đúng đắn, có hệ thống ở thế hệ trẻ. Đồng thời, cần đổi mới toàn diện và đa dạng hóa các hình thức, phương pháp truyền thông; phát triển mạng lưới cung cấp dịch vụ, các loại hình cung cấp dịch vụ phục vụ việc ổn định quy mô và nâng cao chất lượng dân số. Để đưa Nghị quyết 21-NQ/TW thực sự đi vào cuộc sống, thì việc tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của người dân là hết sức quan trọng.

Bài và ảnh: MINH TUẤN

;
.
.
.
.
.
.