Cán bộ là gốc của mọi công việc

Thế giới đang chuyển động sâu sắc, với những biến đổi khó lường. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ (4.0) đang làm thay đổi tận sâu nền sản xuất vật chất của nhân loại. Điều đó không chỉ tạo nên sự phát triển mạnh mẽ, vượt bậc của lực lượng sản xuất toàn cầu, mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với lực lượng chính trị cầm quyền ở mọi quốc gia trong việc tư duy lại nhiều vấn đề liên quan đến mô hình phát triển; thay đổi căn bản phương thức tổ chức, quản lý nền sản xuất và vận hành xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là, đối với mọi quốc gia, để có thể nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức trong tiến trình phát triển trong thời đương đại, đều phải bắt đầu từ nhận thức và giải quyết các vấn đề liên quan đến xây dựng và phát triển nguồn nhân lực. Trong đó, bộ phận có vai trò đặc biệt quan trọng – “gốc của mọi công việc” - theo cách nói của Hồ Chí Minh, là đội ngũ cán bộ hay cũng có thể gọi là đội ngũ các nhà chính trị chuyên nghiệp.

V.I.Lênin đã có lý khi cho rằng: “Lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được hàng ngũ của mình, những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”1. Ngay khi giành chính quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin đã tiến hành đánh giá, sắp xếp lại cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ mới. Qua chỉ đạo thực tiễn, Lênin lần nữa khẳng định: Nghiên cứu con người, tìm ra những cán bộ có bản lĩnh hiện nay, đó là then chốt, nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là một mớ giấy lộn.

Ở Việt Nam, từ rất sớm, với tư cách là lãnh tụ chính trị của Đảng, của Nhà nước và của nhân ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn xã hội chủ nghĩa, phải có: người xã hội chủ nghĩa. Muốn có người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”2. Trong những người xã hội chủ nghĩa, bộ phận nòng cốt, lực lượng tiên phong được xác định là đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cũng vì thế, Hồ Chí Minh cho rằng: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Và, thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 87 năm qua cũng cho thấy, trong mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau, Đảng ta đã có những chính sách cán bộ và công tác cán bộ tương thích. Cán bộ nào phong trào ấy là kinh nghiệm được đúc kết từ thực tế lãnh đạo cách mạng của Đảng.

Trong thời kỳ đổi mới, nhất quán quan điểm “cán bộ là gốc của mọi công việc”, Đảng ta luôn có những quyết sách kịp thời về công tác cán bộ cho các tổ chức bộ máy quyền lực chính trị, quyền lực Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) đã chỉ rõ, trong công cuộc đổi mới “cán bộ có vai trò quan trọng, hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới”3. Đến Đại hội XI, với quan điểm: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định đến sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”4, Đảng ta đã đề ra yêu cầu, giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân. Các nhà lãnh đạo, quản lý là những người được đào tạo, bồi dưỡng để có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có kiến thức chuyên môn, có trách nhiệm với công việc được giao phó, có khả năng xây dựng khối đoàn kết để phát huy sức mạnh tập thể.

Triển khai tổ chức thực hiện đường hướng trên, công tác cán bộ nói riêng, xây dựng nguồn nhân lực cho hệ thống chính trị (HTCT) nói chung trong 30 năm đổi mới là một trong những nhân tố để “đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử…”. Bên cạnh đó, Đảng cũng đã nghiêm túc chỉ ra nhiều hạn chế, khuyết điểm trong đó có sự yếu kém của công tác tổ chức, cán bộ.  Vì lẽ đó, một trong những bài học khi “Nhìn lại 30 năm đổi mới” của Đảng ta là: “...phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân”5.

Từ sau Đại hội XII đến nay, Đảng ta đã thể hiện rất rõ quyết tâm chính trị, nói đôi với làm gắn liền việc “đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị trung ương 4 khóa XI” với “Tiếp tục đẩy mạnh  thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Theo tinh thần đó, ngoài việc quán triệt nội dung quan điểm chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới, trước mắt, phải chăng các cấp độ chủ thể lãnh đạo, quản lý cần thống nhất nhận thức và xử lý có hiệu lực, hiệu quả các loại vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, hoạt động của đội ngũ cán bộ ở nước ta là một hoạt động đặc biệt mang tính quyền lực, đảm bảo cho thực thi pháp luật. Chính đội ngũ này tham mưu cho các cơ quan chức năng đề ra các chủ trương, chính sách, đồng thời là lực lượng chủ chốt trong triển khai tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách đó. Hội nhập và phát triển đặt ra nhiều vấn đề mới như tuân thủ luật pháp, cam kết quốc tế, các cơ chế, hiệp định, thông lệ quốc tế, tranh chấp thương mại, sở hữu công nghiệp... Tất cả điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ, nhất là ở tầm chiến lược phải am hiểu, có năng lực phát hiện, đề xuất và đặc biệt là kỹ năng tổ chức thực hiện  trong phạm vi, cấp độ do mình phụ trách. Tạo dựng cơ chế chọn được các nhà chính trị, các chính khách phải được xem là ưu tiên của Đảng. Nhưng, đã đến lúc cùng với đó phải thông qua sự lựa chọn của Nhân dân. Nói cách khác, ở khâu này, Đảng chuẩn bị nhân sự, còn đội ngũ cán bộ được trao quyền, ủy quyền phải do nhân dân.

Thứ hai, các thể chế hành chính, quy tắc pháp luật - chủ yếu ở tầm chiến lược giải quyết, có thể đúng, có thể hay. Nhưng muốn đi vào cuộc sống phải thông qua năng lực tổ chức thực hiện của con người -  trước hết là những cán bộ, công chức đang hành xử quyền lực trong bộ máy công quyền. Trình độ, năng lực và sự công tâm của đội ngũ này cùng với một cơ chế trách nhiệm pháp lý minh bạch, công khai sẽ là những điều kiện bảo đảm cho các quy tắc pháp luật được thực hiện; đó cũng là cơ sở để ngăn chặn, xử lý kịp thời hành vi lạm quyền, cố tình làm sai luật từ những người nắm giữ thẩm quyền chấp pháp. Vì thế, hình thành cơ chế thu hút nhân tài cho bộ máy hành chính Nhà nước và có cơ chế để thẩm định năng lực của đội ngũ công chức, viên chức qua sự cống hiến, phụng sự nhân dân, được nhân dân chấp nhận phải là giải pháp cần được ưu tiên.

Thứ ba, phát triển kinh tế thị trường, ngoài những tác động tích cực trong việc tạo môi trường cho sự cạnh tranh, đua tranh... thì trong quá trình đó, do thể chế Nhà nước - thường có tính bảo thủ, chưa kịp thay đổi, quan hệ thị trường tất yếu tạo áp lực, gây nên những biến dạng đối với nền công vụ. Sự xuất hiện các tệ nạn: Móc ngoặc, đi lại, liên minh giữa giới làm ăn với giới có quyền chính là nguy cơ lớn nhất đối với chế độ xét từ phương diện kinh tế lẫn phương diện chính trị. Ngoài ra, tham ô, lãng phí; chạy chức, chạy quyền, lộng hành... xuất hiện với tần suất lớn, rộng cũng là những hiểm họa... Đó đang thực sự là những thách thức có tính sống còn đối với chế độ, đối với Đảng như Đảng ta đã từng cảnh báo. Phát hiện vấn đề, tìm ra nguyên nhân, giải pháp tháo gỡ, trong nhiệm kỳ khóa XII, với thế và lực mới, Đảng ta đã tập trung giải quyết được nhiều việc và tất cả việc làm đó đã và đang được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Tuy nhiên, để phát triển lành mạnh, vẫn còn khá nhiều vướng mắc. Tại Hội nghị Trung ương 6, khóa XII đã xác định nội dung những giải pháp để hoàn thiện thể chế chính trị, thể chế Nhà nước. Tinh thần cơ bản của nghị quyết này là sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của mỗi nhân tố và của cả hệ thống, tạo sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; là tạo cơ sở chính trị vững chắc và môi trường thuận lợi cho đổi mới kinh tế, đồng thời qua đó đáp ứng cao nhất và tốt nhất yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường; là tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân và các tổ chức đại diện của dân, đáp ứng những nhu cầu chính đáng của dân, huy động mọi nguồn lực của xã hội để xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, giàu đẹp. Trong hệ thống giải pháp này, quyết định vẫn là công tác xây dựng Đảng. Với tư cách là linh hồn của hệ thống và để xứng đáng với vai trò đó, Đảng cần chăm lo xây dựng Đảng, làm cho Đảng thật sự là Đảng của đạo đức, văn minh.
 Thứ tư, nếu thể chế, tổ chức bộ máy là hình thức biểu hiện, thì con người - những người làm việc trong tổ chức bộ máy là hồn cốt. Vì thế, để ngăn ngừa suy thoái về đạo đức, lối sống, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những người nắm giữ trọng trách lãnh đạo, đứng đầu tổ chức bộ máy, trước hết đòi hỏi mỗi người phải nghiêm khắc tự tu dưỡng, tự rèn luyện. Nhưng chỉ từng đó chưa đủ, quan trọng nữa là phải thiết lập, hoàn thiện từng bước thể chế, cơ chế kiểm tra, kiểm soát quyền lực đủ sức ngăn ngừa sự lạm quyền, lộng quyền của cá nhân và tổ chức bộ máy có thẩm quyền quyết định trong năm và phân bổ giá trị.

Đạt được điều đó trong thực tế là đã tạo môi trường để trong đó, qua đó mỗi cán bộ, đảng viên hình thành kỹ năng và bản lĩnh đối thoại- “phê và tự phê bình” để thuyết phục, cảm hóa, tạo lập thống nhất đoàn kết trong Đảng và sự đồng thuận xã hội. Đó là cội nguồn sức mạnh để Đảng và đất nước tiếp tục tiến lên phía trước.

PGS.TS Hồ Tấn Sáng


1. V.I. Lênin toàn tập, NXB Tiến Bộ,
Mát-xcơ-va, 1978, tập 4, tr.473.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập,Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996, t 9, tr 296
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, khóa VII, ngày 26-­6­-1992, “Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”.
4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 41.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 70.

;
.
.
.
.
.
.