Đà Nẵng xếp thứ 4 về Chỉ số cải cách hành chính năm 2018

.

Quảng Ninh và Ngân hàng Nhà nước dẫn đầu bảng xếp hạng Chỉ số PAR INDEX 2018. Trong khi đó, tỉnh Phú Yên và Bộ Giao thông vận tải đứng ở vị trí bét bảng.

Đồng chí Trương Hòa Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, Trưởng ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ phát biểu kết luận Hội nghị. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Đồng chí Trương Hòa Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, Trưởng ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ phát biểu kết luận Hội nghị. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN

Chỉ số cải cách hành chính năm 2018 (PAR INDEX 2018) của các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính năm 2018 (SIPAS 2018) được Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ công bố tại Hội nghị diễn ra chiều 24-5. Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình, Trưởng ban Chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ chủ trì Hội nghị.

Chỉ số PAR INDEX 2018 được đánh giá ở 18 bộ, ngành và 63 tỉnh, thành phố. Trong đó, Bộ tiêu chí đánh giá, xác định Chỉ số cải cách hành chính cấp bộ được cấu trúc thành 7 lĩnh vực đánh giá, 39 tiêu chí và 88 tiêu chí thành phần; cấp tỉnh được cấu trúc thành 8 lĩnh vực đánh giá, 41 tiêu chí, 96 tiêu chí thành phần.

Kết quả Chỉ số PAR INDEX 2018 của khối bộ, ngành cho thấy, nhóm thứ nhất, đạt kết quả Chỉ số cải cách hành chính trên 80%, bao gồm 14 bộ, ngành: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Bộ Tài chính; Tư pháp; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Công Thương; Ngoại giao; Khoa học và Công nghệ; Nội vụ; Tài nguyên và Môi trường; Lao động - Thương binh và Xã hội; Giáo dục và Đào tạo; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Thanh tra Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nhóm thứ hai, đạt kết quả từ trên 70% đến dưới 80%, gồm 4 bộ: Bộ Xây dựng; Thông tin và Truyền thông; Y tế và Giao thông vận tải.

Giá trị trung bình Chỉ số cải cách hành chính của 18 bộ, cơ quan ngang bộ đạt được là 82,68%. Năm 2018 không bộ nào có kết quả Chỉ số cải cách hành chính dưới 70%. Tuy nhiên, chỉ có 8 bộ có Chỉ số cải cách hành chính năm 2018 trên mức trung bình. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đạt Chỉ số cải cách hành chính năm 2018 cao nhất với kết quả là 90,57%. Ngược lại, Bộ Giao thông vận tải thấp nhất với kết quả 75,13%.

Chỉ số cải cách hành chính năm 2018 của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có kết quả trung bình đạt 76,92%. Có 29 địa phương đạt Chỉ số cao hơn mức trung bình, trong đó có 9 địa phương đạt kết quả trên 80%; 60/63 địa phương đạt kết quả trên 70%. Đáng chú ý, năm 2018 không có địa phương đạt kết quả dưới 60% và khoảng cách kết quả Chỉ số giữa đơn vị cao nhất và đơn vị thấp nhất trong bảng xếp hạng năm 2018 là 19,53%, thu hẹp đáng kể so với năm 2017 (29,76%).

Quảng Ninh tiếp tục giữ vững ngôi vị dẫn đầu bảng xếp hạng với kết quả Chỉ số đạt 89,06%, cao hơn 5,08% so với đơn vị đứng ở vị trí thứ hai là thành phố Hà Nội, đạt 83,98%.Tỉnh Đồng Tháp đã có những cải thiện đáng kể về kết quả Chỉ số cải cách hành chính năm 2018, đạt 83,71/100 điểm, tăng 1,80 điểm so với năm 2017, đứng ở vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng tổng hợp và đạt kết quả cao nhất trong số 13 tỉnh, thành phố khu vực Tây Nam bộ.

Các vị trí thứ 4, thứ 5 trên bảng xếp hạng Chỉ số cải cách hành chính năm 2018 thuộc về 2 thành phố lớn, lần lượt là Đà Nẵng (đạt 83,70%) và Hải Phòng (đạt 83,68%). Đây cũng là những đơn vị có nhiều đổi mới, sáng tạo trong thực hiện cải cách hành chính những năm gần đây.

Trong nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu bảng xếp hạng Chỉ số cải cách hành chính 2018 còn có sự xuất hiện lần đầu tiên của 2 địa phương đó là Long An và Ninh Bình. Đây cũng là sự ghi nhận xứng đáng cho nỗ lực không ngừng trong tổ chức triển khai nhiệm vụ cải cách hành chính thời gian qua tại các đơn vị này. Trong nhóm 5 địa phương đứng cuối bảng xếp hạng Chỉ số cải cách hành chính 2018, có 3 địa phương đạt kết quả dưới 70%. Phú Yên là địa phương đứng cuối bảng xếp hạng với kết quả Chỉ số đạt 69,53%. Hai đơn vị khác có kết quả dưới 70% là tỉnh Kon Tum, đạt 69,57%, xếp thứ 62 và tỉnh Trà Vinh, đạt 69,85%, xếp thứ 61/63.

82,99% người dân, tổ chức hài lòng với sự phục vụ của cơ quan hành chính Nhà nước

Theo Báo cáo Chỉ số SIPAS 2018, tỷ lệ người dân, tổ chức hài lòng với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước nói chung trong cả nước là 82,99%; hài lòng với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nằm trong khoảng 69,98% - 97,88%. Như vậy, tỉnh có Chỉ số hài lòng cao nhất là 97,88% và tỉnh có Chỉ số hài lòng thấp nhất là 69,98%; sự cách biệt xấp xỉ 28%. Một nửa số tỉnh trong cả nước có Chỉ số hài lòng nằm trong khoảng 81,92% - 97,88%, nửa còn lại nằm trong khoảng 69,98 - 81,92%, cho thấy các tỉnh, thành phố này cần nỗ lực để đảm bảo mục tiêu cải cách hành chính là trên 80% người dân, tổ chức hài lòng với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước vào năm 2020.

Năm yếu tố cơ bản của quá trình và kết quả cung ứng dịch vụ hành chính công được đánh giá trong khuôn khổ Chỉ số SIPAS 2018, gồm: (1) Tiếp cận dịch vụ, (2) thủ tục hành chính, (3) công chức, (4) kết quả dịch vụ, (5) việc tiếp nhận, xử lý ý kiến góp ý, phản ánh, kiến nghị, nhận được sự hài lòng của người dân, tổ chức nói chung trong cả nước lần lượt là: 80,62%, 86,40%, 85,10%, 88,13% và 74,07%.

So với năm 2017, Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính nói chung trong cả nước năm 2018 tăng hơn 2%. Chỉ số hài lòng về 4 yếu tố, là tiếp cận dịch vụ, thủ tục hành chính, công chức, kết quả dịch vụ, cũng đều tăng so với năm 2017. Tuy nhiên, Chỉ số hài lòng về yếu tố tiếp nhận, xử lý ý kiến góp ý, phản ánh, kiến nghị  giảm. 42/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính tăng từ 1 - 19%.

Phát biểu tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình cho biết, năm 2018 tiếp tục ghi nhận những nỗ lực cải cách của các bộ, ngành trong triển khai thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, với phương châm hành động “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả”. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành đã tập trung cải thiện các chỉ số môi trường kinh doanh, chú trọng thực hiện các giải pháp cải thiện mạnh mẽ các chỉ số; thúc đẩy tăng năng suất lao động, sức cạnh tranh trong từng ngành, lĩnh vực, từng địa bàn thuộc phạm vi quản lý với quyết tâm đưa Việt Nam vào nhóm ASEAN - 4 về năng lực cạnh tranh và môi trường kinh doanh.

Tuy nhiên, Phó Thủ tướng cho rằng, mặc dù các bộ, ngành, địa phương đã có nhiều cố gắng, nỗ lực để đạt kết quả tích cực trong công cuộc cải cách, tuy nhiên công tác cải cách hành chính thời gian qua vẫn còn những tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra trong kết quả Chỉ số cải cách hành chính năm 2018, Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính năm 2018 trong công tác chỉ đạo, điều hành, trong cải cách thể chế.

Một số bộ, ngành, địa phương vẫn chưa quan tâm đúng mức đến công tác cải cách hành chính, chưa thể hiện vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong việc thúc đẩy cải cách, chưa tạo chuyển biến rõ rệt trong hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Cải cách thủ tục hành chính vẫn còn tình trạng bộ, ngành, địa phương ban hành các quy định thủ tục hành chính trái thẩm quyền; tình trạng giải quyết hồ sơ chậm, muộn, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách hành chính, khắc phục những tồn tại, bất cập trong thời gian vừa qua, Phó Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành, địa phương căn cứ kết quả Chỉ số cải cách hành chính năm 2018, kiểm điểm lại việc thực hiện công tác cải cách hành chính thời gian qua, đề ra các biện pháp khắc phục; khuyến khích, nhân rộng cách làm mới, mô hình hay, tạo động lực thúc đẩy cải cách; sử dụng hiệu quả kết quả Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính năm 2018 trong chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính tại bộ, ngành, địa phương và có biện pháp phù hợp để nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công cho người dân, tổ chức.

Phó Thủ tướng lưu ý các bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế; nâng cao chất lượng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm tính hợp pháp, đồng bộ, thống nhất, khả thi của hệ thống pháp luật; tập trung rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính, trọng tâm là rà soát, cắt giảm thực chất điều kiện kinh doanh, danh mục sản phẩm hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành, các thủ tục hành chính đang là rào cản liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh.

Bên cạnh đó cần phát huy vai trò của Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ trong việc tăng cường đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, bộ, ngành, địa phương, qua đó đề xuất các giải pháp tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống người dân.

Cùng với đó, đẩy mạnh việc đổi mới, sắp xếp và kiện toàn tổ chức các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp và gắn kết chặt chẽ với các chính sách tinh giản biên chế trên cơ sở tổ chức triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại các Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Đồng chí Trương Hòa Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, Trưởng ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ chủ trì Hội nghị. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Đồng chí Trương Hòa Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, Trưởng ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ chủ trì Hội nghị. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN

“Tình trạng cò dự án, tham nhũng vẫn còn nên phải quyết liệt cải cách bộ máy hơn nữa, một dự án xin 1-2 năm trời mới ra kết quả thì không được”, Phó Thủ tướng nêu và yêu cầu tiếp tục siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; tăng cường thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những trường hợp sai phạm trong tuyển dụng, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ, công chức, viên chức. Triển khai có hiệu quả các chính sách về tinh giản biên chế theo quy định.

Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai có hiệu quả các nhóm nhiệm vụ về xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, thường xuyên rà soát, nâng cao chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4, chú trọng đầu tư xây dựng và vận hành có hiệu quả Cổng dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử; thực hiện hiệu quả việc xử lý hồ sơ công việc trên môi trường điện tử và gửi nhận văn bản điện tử trong nội bộ các cơ quan hành chính nhà nước, nội bộ của từng bộ, ngành, địa phương.

Theo Báo Tin tức

;
;
.
.
.
.
.