Núi thiêng và lòng người

.

Người thương Núi là Người có Nhân*. Chữ Nhân có hình Người. Sơn Trà là một quả núi, vây quanh là biển, còn gọi bán đảo Sơn Trà. Bao đời, người Quảng Nam- Đà Nẵng không chỉ thương mà còn yêu quý, tựa vào và giữ gìn Sơn Trà như hòn ngọc hiếm, một biểu tượng linh thiêng để nhìn, để ngắm, để tựa vào, để nghĩ về Trời, về Đất, về Gió, về Mưa, về cuộc Đời:

Một góc núi thiêng Sơn Trà.         Ảnh: Xuân Sơn
Một góc núi thiêng Sơn Trà. Ảnh: Xuân Sơn

Đời ông cho chí đời cha/ Mống hiện Sơn Chà không gió thì mưa.
Chiều chiều mây phủ Sơn Chà/ Sóng gầm Non Nước, mưa sa Vũng Thùng.

1. Sơn Trà - ngọn núi xanh trên biển. Từ góc nhìn Hải Vân, Sơn Trà nối liền với đất bằng một doi cát dài được sóng và gió bồi tụ, che chắn cho Vũng Thùng.

Tai nghe súng nổ cái đùng/ Thôi rồi, Tây chiếm Vũng Thùng hôm qua.

Câu ca buồn ứa nước mắt này có từ cách đây trên 160 năm. Sáng ngày 1-5-1858, hạm đội Pháp-Tây Ban Nha, do R. de Genouilly chỉ huy, đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà. Bị đánh tơi bời, hai năm sau, ngày 23-3-1860, liên quân Pháp - Tây Ban Nha cuốn gói lên tàu, đốt sạch, để lại ở chân núi Sơn Trà một nhà thờ và một “đồi hài cốt” khoảng 1.500 xác lính xâm lăng bị quân ta tiêu diệt.

Một trăm năm sau, ngày 8-3-1965, tàu há mồm của Mỹ thay chân Pháp vào Vũng Thùng, cập bến Xuân Thiều. Lính thủy đánh bộ Mỹ nghênh ngang nện gót giày lên đất Nam Ô, bay trực thăng lên chiếm đỉnh Sơn Trà, xây dựng Đài ra đa - dân Đà Nẵng gọi là con mắt thần, có thể nhìn xa 300km, là ra đa vọng ngoại. Trải qua hai cuộc chiến khốc liệt, cả giặc Pháp và giặc Mỹ đều lợi dụng ưu thế quân sự tuyệt vời của Sơn Trà.

Mỹ rút chạy. Sơn Trà vẫn bình yên và đẹp ngạo nghễ.

Lòng nhẹ tênh khi ngồi ô-tô lên Sơn Trà. Mừng khi thấy sừng sững một tượng Phật uy nghi trước mặt ngôi chùa khang trang trên lưng chừng núi, mang tên chùa Linh Ứng. Phật và chùa đều nghiêm nghị, đầy suy tư, nhìn ra mặt biển xanh trong tận đáy sâu, nhìn về Đà Nẵng phố xá nghênh ngang, người, xe vội vã...

Người Đà Nẵng, và cả người tứ xứ, có Sơn Chà xanh uy nghi để chiêm ngưỡng, để kỳ vọng, tin tưởng, hướng về, mong cho tâm hồn thanh thản. Phía trên đầu, gần nhất, có cây xanh lá, ngày đêm cùng gió thổi mát rượi, có tiếng chim kêu, tiếng voọc hát gọi bầy, tiếng khỉ hú ghẹo người.

2. Ngày 8-4-1947, thành lập Ban Cán sự Đà Nẵng, do Nguyễn Ngọc Chấn làm Bí thư. Ban Cán sự ra đời đóng cơ quan ở núi Sơn Trà, gồm 3 bộ phận: bộ phận thường trực ở trên núi, làm việc hằng ngày, có mật danh là Diên An; bộ phận dự bị trên chóp núi, có mật danh là Mốt-cu - Mạc Tư Khoa; bộ phận dưới chân núi. Các bộ phận của Ban Cán sự Thành thường xuống làm việc và ở luôn dưới làng, tại ba địa điểm: Nhà bà Tư Muộn ở Cổ Mân, nhà bà Trần Thị Tý ở bờ phía đông sông Hàn và nhà bà Tư Nhùm tức Lê Thị Trà ở An Hải.

Tháng 3-1947, chỉ có 11 người về Thành hoạt động, trong đó, khu Trung 5 người với 2 cây súng trường, 1 súng lục. Tháng 5-1947, có thêm lực lượng tự vệ. Đoàn cán bộ đầu tiên vào nội thành hoạt động. Để tổ chức kháng chiến chống địch ngay trong thành phố khi các lực lượng đã rút ra ngoài, thành lập một Ban Đặc vụ quân sự do Đoàn Tiềm phụ trách. Ban có khoảng 1 đại đội, mỗi trung đội phụ trách một khu phố với nhiệm vụ chủ yếu là nắm tình hình, diệt tề trừ gian, gây cơ sở và làm công tác địch vận.

Một bộ phận của Ban với 15 chiến sĩ, do Nguyễn Hữu Khoan (Đà) chỉ huy, trực tiếp bám nội thành. Để tăng cường cơ quan lãnh đạo kháng chiến, ngày 5-8-1947, Ban Cán sự Đà Nẵng tổ chức cuộc hội nghị tại Diên An. Hội nghị phân tích tình hình, chỉ ra rằng, địch không chỉ có âm mưu xây dựng Đà Nẵng thành một căn cứ quân sự lớn, mà chúng biến Đà Nẵng thành cứ điểm chiến lược cho cả miền Trung và Đông Dương.

Mùa đông năm 1955, nhân mùa biển động, thuyền về neo đậu quanh các cồn, Thành ủy Đà Nẵng tổ chức một cuộc họp, có Trần Chiến, Đinh Văn Lư (Bảy Á), Trần Nhành, Lê Đình Cả, Trần Hữu Cử (Ba Dư), do Bí thư Thành ủy Nguyễn Thành Long chủ trì, họp trên thuyền rớ của ông Huỳnh Đình Kiển. Để cuộc họp diễn ra an toàn, cơ sở bố trí thêm 9 thuyền đậu quanh thuyền của ông Kiển, ngoài ra còn bố trí một số thuyền con để anh em bảo vệ chèo quanh vòng ngoài, có động tĩnh gì thì báo ngay để kịp đối phó.

Sau Tết Bính Thân - 1956, từ Hà Nội, Tư Thuận (Trương Chí Cương), bấy giờ làm Phó Ban quan hệ Bắc - Nam, giao nhiệm vụ cho Nguyễn Trí Quang, nghiên cứu lập đường dây trên biển nhằm vận chuyển người, tài liệu và hàng hóa từ Vĩnh Linh, vượt Vĩ tuyến 17 vào Trung Mang - Hòa Vang và ngược lại. Tháng 3-1956, Nguyễn Trí Quang được triệu tập ra Hà Nội, gặp Phạm Hùng và Trương Chí Cương để nhận nhiệm vụ thành lập “đường dây liên lạc Bắc- Nam trên biển”.

Vào một đêm tối trời cuối tháng Ba, đầu tháng Tư năm 1956, thuyền lặng lẽ rời Vịnh Mốc (Quảng Trị), chạy ra cửa sông Nhật Lệ - Quảng Bình, mang theo tài liệu mật, hai bộ con chữ in, thuốc tây, tiền Sài Gòn và những người con dũng cảm của Sông Đà, do Nguyễn Trí Quang, Bí thư chi bộ - chỉ huy; Trần Ngọc Linh, Phó Bí thư chi bộ và đảng viên Phan Xuân Đán (Quang) làm thuyền trưởng; cùng thủy thủ gan dạ Đoàn Hành và Trần Can người Hội An, ông Phạm Đủ quê Thăng An - Thăng Bình. Sau hai ngày hai đêm thuận buồm xuôi gió, thuyền cập vào Hòn Hành tại Liên Chiểu.

Ông Phạm Đủ bắt được liên lạc với Trần Hữu Cử (Trần Hà), cán bộ của Thành ủy trụ lại, đóng vai người làm nghề buôn bán cá, sống hợp pháp hoạt động cách mạng; qua đó, gặp được Nguyễn Thành Long, Bí thư Thành ủy. Sau ba ngày, giao hàng xong, chiếc thuyền của Huỳnh Kim Tâm - ngư dân Sông Đà, tấp sát vào chân núi Sơn Trà, đón Bí thư Nguyễn Thành Long đang đau rất nặng, đưa ra Vĩnh Linh...

Đầu năm 1957, theo chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Nam-Đà Nẵng, đội thuyền mang tên “Tập đoàn đánh cá Sông Đà” nhận thêm nhiệm vụ cực kỳ quan trọng là đưa những cán bộ trụ lại sau 1954, bị đau ốm, kiệt sức, khó có điều kiện trụ lại lâu dài, cùng nhiều cán bộ, đảng viên, cơ sở không còn khả năng hợp pháp, vượt biển ra miền Bắc để chữa bệnh, học tập. Kết hợp chuyển hàng, C2 - đơn vị vận chuyển ở Vịnh Mốc - đã đưa Trần Nhành và Nguyễn Duy Hưng (Sáu Hưng) rời hang Bờm Nở trên mé núi Sơn Trà, xuống thuyền ra Vĩnh Linh. Sau khi ra Hà Nội một thời gian ngắn thì Trần Nhành về lại Sông Đà, bắt liên lạc lại với Trần Hữu Cử và cán bộ trụ lại...

Đến thời chống Mỹ, các đời Bí thư Bốn Hương, Mười Khôi, Hồ Nghinh, Mười Chấp, cùng với Hà Kỳ Ngộ, Mai Đăng Chơn, Phạm Hồng Quang, Sáu Hưng, Năm Dừa... từ núi rừng Trường Sơn, đêm đêm lần về, xây căn cứ trong nhà dân, xây dựng “thế trận lòng dân”. Nhờ vậy mà trụ được để duy trì cuộc chiến đấu cho đến ngày chiến thắng 29-3-1975.

3. Mỗi lần lên Sơn Trà tôi đều hỏi, tìm gặp người chỉ cho biết đâu là địa điểm làm căn cứ Diên An, Mốt-cu - Mạc Tư Khoa, đâu là hang Bờm Nở, đâu là Hòn Hành, đâu là cái bến sát vòm đá, đầu năm 1955, thuyền của bà con sông Hàn tựa vào, bí mật đưa Bí thư Tỉnh ủy Tư Thuận vượt biển vào Quy Nhơn... và đâu là bến thuyền dưới vòm cây rậm rịt, ngư dân sông Hàn đã lặng lẽ đưa Bí thư Thành ủy Nguyễn Thành Long tạm biệt Sơn Trà, xuống thuyền ra Bắc... Hỏi và lắng nghe tiếng vọng thiêng liêng từ núi, từ những linh hồn.

Truyền thống yêu nước chính là lịch sử yêu nước. Mà, lịch sử là vũ khí để chiến đấu và chiến thắng!
Đà Nẵng luôn tự hào về sức mạnh không gì so sánh của ‘‘thế trận lòng dân’’. Đó là lịch sử yêu nước. Những quyết định sống còn, những thành tích vẻ vang của Đà Nẵng bao giờ cũng có tiếng nói đồng thuận, đầy sức thuyết phục, hợp lòng dân và luôn biết phát huy sức mạnh của Văn hóa và Lịch sử. Lịch sử về bán đảo Sơn Trà và những câu chuyện về di tích lịch sử trên bán đảo Sơn Trà và cả vẻ đẹp tuyệt vời của Sơn Trà, là tài sản vô giá cần nâng niu giữ gìn và phát huy!

Ký của Hồ Duy Lệ

* Trong Đại Việt sử ký toàn thư.

;
;
.
.
.
.
.