Chống dịch tại Đà Nẵng: Chuyện bây giờ mới kể

.

Dùng từ “thần tốc” vẫn chưa thể hiện hết được sự cần thiết về sự khẩn trương của công tác điều tra dịch tễ, truy vết ca bệnh nhiễm Covid-19.

PGS.TS Trần Như Dương (bên phải) cùng lãnh đạo xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng, trao đổi tại nơi phát hiện ca bệnh.
PGS.TS Trần Như Dương (bên phải) cùng lãnh đạo xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng, trao đổi tại nơi phát hiện ca bệnh.

Đây là chia sẻ của PGS.TS Trần Như Dương, Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc của Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 vừa được tổ chức ngày 3-10.

Từ hoạt động tại các ổ dịch Sơn Lôi (Vĩnh Phúc), Hạ Lôi (Hà Nội), Bình Thuận và đặc biệt là tại Đà Nẵng và một số tỉnh miền Trung trong thời gian vừa qua, PGS.TS Trần Như Dương và đồng sự của đã chia sẻ những bài học kinh nghiệm quý giá.

Theo PGS.TS Trần Như Dương, việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo “chiến lược phát hiện; chiến lược cách ly và chiến lược khoanh vùng dập dịch” là hết sức quan trọng và đóng vai trò then chốt cho chống dịch thành công.

Khi xuất hiện ca bệnh Covid-19 trong cộng đồng việc đầu tiên phải làm ngay chính là truy vết tất cả những người tiếp xúc với bệnh nhân để tổ chức cách ly. Những người tiếp xúc gần với bệnh nhân hay còn gọi là F1, đây là những người có nguy cơ rất cao bị lây bệnh và có thể sẽ trở thành nguồn lây nguy hiểm trong cộng đồng.

Việc truy vết F1 ngay khi phát hiện ca bệnh là yếu tố cực kỳ then chốt, quyết định trong việc chống dịch với nguyên tắc truy vết là phải “Thần tốc và triệt để”, bởi vì trong chống dịch Covid-19 ở bất cứ khâu nào cũng phải chạy nhanh hơn sự lây lan của dịch.

“Chúng tôi phải chọn dùng từ “Thần tốc” mà vẫn còn cảm thấy chưa thể hiện hết được sự cần thiết về sự khẩn trương của công việc này vì thời gian ủ bệnh của Covid-19 có thể rất ngắn chỉ từ 1-2 ngày cho tới 14 ngày sau khi tiếp xúc với người bệnh. Chính vì vậy phải truy vết càng nhanh càng tốt, không được trậm trễ, bởi trậm chễ giờ nào, phút nào là nguy cơ F1 có thể trở thành F0 và sẽ làm lây ra toàn cộng đồng thì hậu quả sẽ rất khôn lường”, PGS.TS Trần Như Dương trao đổi.

Việc truy vết F1 phải triệt để, không được để sót F1. Nếu bỏ sót F1 thì rất nguy hiểm và đây là một chỉ số rất xấu trong chống dịch. Chính vì vậy buổi tập huấn đầu tiên về chống dịch cho tất cả các quận huyện ngay khi nhóm công tác của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương đặt chân đến Đà Nẵng cũng chính là tập huấn về truy vết tiếp xúc và tổ chức cách ly.

PGS.TS Trần Như Dương điều tra dịch tễ khu vực nhà bệnh nhân COVID-19 tại Đà Nẵng sinh sống.
PGS.TS Trần Như Dương điều tra dịch tễ khu vực nhà bệnh nhân Covid-19 tại Đà Nẵng sinh sống.

 Truy vết theo mốc dịch tễ

Nhớ lại những ngày đầu khi đi chống dịch tại Sơn Lôi (Vĩnh Phúc), khi đó chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm nên việc truy vết F1 của những ca bệnh đầu tiên còn lúng túng. Tuy nhiên qua thực tiễn chúng ta đã dần hoàn thiện các bước quy trình.

Cụ thể, khi truy vết, cán bộ điều tra dịch tễ không nên hỏi ngay bệnh nhân vào chi tiết những người tiếp xúc mà phải xác định các “mốc dịch tễ” trước - bởi đây là những đầu mối dịch tễ lớn sau đó mới truy vết đến từng người tiếp xúc.

“Mốc dịch tễ” chính là những địa điểm/những sự kiện mà bệnh nhân đã đến, đã tham dự trong thời gian từ 3 ngày trước khi khởi phát đến khi bệnh nhân được cách ly y tế (ví dụ các mốc dịch tễ hay gặp tại thực địa là đám cưới, đám ma, chợ, quán ăn, lễ hội, bệnh viện, cơ quan, công sở …).

Truy các “mốc dịch tễ” rất quan trọng để từ đó mới truy ra từng cá nhân F1, nếu bị bỏ quên mốc dịch tễ thì có nghĩa là rất nhiều F1 sẽ bị bỏ sót.

Một bệnh nhân thường đi rất nhiều nơi, tham gia rất nhiều hoạt động nên có rất nhiều “mốc dịch tễ” ở nhiều địa điểm khác nhau cần phải điều tra. Cho nên để truy vết thần tốc thì nhóm điều tra ban đầu khi phát hiện được các “mốc dịch tễ” phải báo ngay về bộ phận đầu mối bằng mọi phương tiện nhanh nhất, thường là dùng điện thoại hoặc gửi qua Zalo tên, địa chỉ của các mốc dịch tễ. Căn cứ vào các mốc dịch tễ nhận được, Bộ phận đầu mối ngay lập tức cử nhiều đội truy vết đồng loạt tới các địa điểm có “mốc dịch tễ” để truy vết F1. Trong trường hợp một số “mốc dịch tễ” nằm ngoài địa bàn quản lý thì bộ phận điều phối sẽ liên hệ và thông báo “mốc dịch tễ” cho các đơn vị liên quan để phối hợp điều tra truy vết ngay.

Trong đợt dịch tại Đà Nẵng, có rất nhiều bệnh nhân các mốc dịch tễ không chỉ ở Đà Nẵng mà còn liên quan đến nhiều địa phương khác như TP HCM, Quảng Ngãi, Quảng Nam,... Lúc này, nhóm của PGS.TS Trần Như Dương phải lập tức liên hệ với các địa phương trên để đồng loạt ra quân truy vết F1 tại các mốc dịch tễ đó.

Chính cách làm này đã giúp cho việc truy vết được thần tốc và toàn diện. Còn nếu chỉ cử một đội truy vết làm từ đầu đến cuối thì có thể phải mất vài ngày đến hàng tuần cũng không truy vết xong được F1 và như vậy sẽ không đảm bảo tốc độ của việc chống dịch.

Đến nay, nhóm công tác của PGS.TS đã dự thảo cuốn “sổ tay hướng dẫn truy vết người tiếp xúc với ca bệnh Covid-19” dựa trên những kinh nghiệm đúc rút từ thực tiễn. Chúng tôi đã hoàn thành dự thảo này và đã gửi báo cáo Bộ Y tế. Hiện nay, Bộ đang trong quá trình thẩm định để sớm ban hành.

Tổ chức giám sát có hệ thống

Theo PGS.TS Trần Như Dương, khi dịch bệnh đã có sự lây nhiễm trong cộng đồng thì tình huống sẽ trở nên hết sức phức tạp vì mầm bệnh đã xâm nhập và có thể xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, bất cứ đối tượng nào. Chúng ta cần chủ động, nhanh chóng tận dụng khoảng “thời gian vàng” ngay từ đầu để tổ chức giám sát, phát hiện, lấy mẫu và cách ly tất cả những trường hợp nghi ngờ mắc bệnh trong cộng đồng.

Muốn làm được điều này, chúng ta phải tổ chức giám sát có hệ thống, toàn diện các trường hợp sốt, ho, đau họng, viêm đường hô hấp tại cộng đồng dân cư. Khi phát hiện được những trường hợp này đều phải được coi là những ca bệnh nghi ngờ, phải tổ chức cách ly và lấy mẫu bệnh phẩm ngay lập tức. Thực hiện được điều này triệt để sẽ đóng một vai trò hết sức quan trọng giúp chúng ta phát hiện được sớm nhất nguồn nghi ngờ lây nhiễm, cách ly, cô lập kịp thời, làm suy giảm tốc độ lây truyền của dịch. Đây là một chỉ số giám sát theo dõi dịch rất quan trọng và qua đó sẽ đánh giá được tình hình dịch bệnh tại cộng đồng.

Thực tiễn chống dịch tại Đà Nẵng và một số tỉnh khu vực miền Trung cho thấy các tỉnh đã rất nhanh chóng thực hiện tốt công việc, vì vậy, tất cả những trường hợp nghi ngờ mắc bệnh trong cộng đồng đều đã được phát hiện rất sớm, lấy mẫu và cách ly kịp thời, góp phần quan trọng cho việc chống dịch thành công.

PGS-TS Trần Như Dương làm việc với UBND huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng.
PGS-TS Trần Như Dương làm việc với UBND huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng.

Cách ly triệt để

Một trong những biện pháp giúp Việt Nam chống dịch thành công đó là thực hiện cách ly một cách triệt để, bài bản để cô lập nguồn lây và không cho nguồn lây có cơ hội lây lan ra cộng đồng.

Đối với bệnh nhân chúng ta tổ chức cách ly nghiêm ngặt tại bệnh viện. Riêng đối với các trường hợp F1, đây là những người tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân Covid-19 nên có nguy cơ rất cao bị lây bệnh và có thể coi F1 chính là những nguồn lây tiềm tàng nhất.

PGS.TS Trần Như Dương nhấn mạnh: Việc cách ly tập trung đối với F1 là một trong những biện pháp chống dịch cực kỳ quan trọng và bắt buộc phải làm. Khi truy vết được F1 phải nhanh chóng đưa ngay ra khỏi cộng đồng, kiên quyết không được cho F1 tự cách ly tại nhà. Bởi vì, việc cách ly tại nhà là không triệt để và rất khó kiểm soát. Chỉ cần người F1 lơ là, thiếu ý thức, vi phạm quy định đi ra ngoài mà lại là trường hợp nhiễm bệnh chưa được phát hiện thì khi đó nguy cơ gieo rắc vi rút là rất lớn, sẽ tạo thành lỗ thủng trong hệ thống phòng dịch của chúng ta để từ đó lây bệnh ra cộng đồng.

Trong 1 tháng chống dịch, TP. Đà Nẵng đã huy động, tận dụng mọi nguồn lực cả ở thành phố cũng như các quận huyện để tổ chức cách ly tập trung 11.621 trường hợp F1, trong đó, đã phát hiện được 121 ca bệnh dương tính từ những trường hợp F1. Những trường hợp F1 này đều đã được quây chặt ngay từ đầu nhờ thực hiện chiến lược cách ly tập trung như vậy. Nhờ đó mà các nguồn lây trong cộng đồng đã được cô lập và cách ly kịp thời, không có cơ hội lây lan ra cộng đồng, góp phần quan trọng cho việc dập dịch thành công.

Đối với chiến lược khoanh vùng dập dịch tại Đà Nẵng, hàng ngày, các nhóm dịch tễ của Trung ương và địa phương đã phân tích số liệu dịch tễ, chỉ ra các điểm nóng dịch tễ, các ổ dịch phức tạp để từ đó đề nghị chính quyền địa phương khoanh vùng chống dịch kịp thời.

Trong 1 tháng chống dịch, Đà Nẵng đã xác định được hơn 60 điểm nóng dịch tễ để tổ chức khoanh vùng dập dịch triệt để. Quy mô của các điểm khoanh vùng đều nhỏ gọn, chỉ từ vài trăm dân cho đến dưới 1500 dân.

Chiến lược này rất linh hoạt, dễ thực hiện, và đã góp phần vừa chống được dịch, mà lại vẫn đảm bảo được vấn đề an sinh xã hội.

“Đà Nẵng và các tỉnh miền Trung đã rất thành công và linh hoạt trong công tác khoanh vùng dập dịch trong thời gian chống dịch vừa qua”, PGS.TS Trần Như Dương nhận xét.

Đưa các biện pháp phòng, chống dịch tới từng nhà

Ngoài ra, một trong những kinh nghiệm góp phần thành công trong chống dịch tại thực địa không thể không nhắc tới việc chống dịch dựa vào cộng đồng, huy động sức mạnh của cộng đồng tham gia vào công tác phòng, chống dịch.

Trong đợt chống dịch vừa qua, tại miền Trung, chỉ trong một thời gian ngắn, chính quyền các địa phương đã thành lập được hàng vạn tổ phòng chống dịch COVID cộng đồng trực tiếp tham gia vào công tác phòng chống dịch tại thực địa (Đà Nẵng: 2.200 tổ, Quảng Nam: 5.500 tổ, Quảng Ngãi: 2.300 tổ, Quảng Trị: 4434 tổ). Với số lượng này, đồng nghĩa với việc chúng ta đã huy động thêm được gần 3 vạn người trực tiếp tham gia chống dịch một cách tích cực và hiệu quả tại cộng đồng. Những tổ Covid cộng đồng chính là những hạt nhân của phong trào toàn dân tham gia phòng chống dịch.

Với sự hoạt động của tổ Covid cộng đồng, chúng ta đã thực sự đưa được các biện pháp phòng, chống dịch vào tới từng hộ gia đình – chống dịch tại từng nhà mà ít có nơi nào trên thế giới có thể làm được như vậy. Và đây chính là biểu hiện sinh động nhất của việc phòng chống dịch dựa vào nhân dân, toàn dân tham gia phòng, chống dịch.

Theo Chinhphu.vn

;
;
.
.
.
.
.