Để Việt Nam trở thành quốc gia phồn vinh, hạnh phúc

.

Ngày 30-4-1975 là mốc son ghi dấu sự kết thúc trang sử hào hùng cuộc đấu tranh vì tự do, độc lập dân tộc. Đây cũng là dịp để mỗi người dân Việt Nam kết nối lịch sử diễn ra với hiện tại, suy tư, tìm kiếm những giải pháp cho tương lai. Trên nền cảm xúc đó, có lẽ đây cũng là thời điểm thích hợp để chúng ta bàn luận kế sách góp phần hiện thực hóa mục tiêu của tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta - Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, xác định tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng:  “…củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại…” (1).

Chủ tịch Hồ Chí Minh (Ảnh tư liệu)
Chủ tịch Hồ Chí Minh (Ảnh tư liệu)

1. Khi nghiên cứu lịch sử nhân loại, ai đó đã đúng khi nói rằng, lịch sử đến đâu thì logic đến đó. Lần theo logic của hiện thực xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, có thể nhận thấy: Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, đặc biệt thời đại sau Cách mạng Tháng Mười Nga, trên lập trường của các sĩ phu - nho học phong kiến, hay lập trường dân chủ tư sản của giới trí thức “Tây học” thời đó, các lực lượng yêu nước dù tinh thần, nhiệt huyết có thừa vẫn không thể đưa ra một đường lối chính trị có khả năng thống nhất, tập hợp lực lượng toàn dân tộc giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc đó.

Nói cách khác, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, sự thức tỉnh và sự trưởng thành ý thức dân tộc chỉ có thể xác lập trên nền một thế giới quan, phương pháp khoa học, cách mạng - thế giới quan, phương pháp duy vật biện chứng và một lập trường nhân sinh tiến bộ: giải phóng giai cấp những người lao động, giải phóng dân tộc để giải phóng cho mỗi con người. Người có khả năng đảm đương vai trò đó, vào thời điểm đó ở Việt Nam, trên thực tế là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Vượt lên tầm nhìn bị ràng buộc của ý thức hệ Nho giáo hay hệ tư tưởng cải lương tư sản của các bậc sĩ phu, những nhà yêu nước đương thời, Hồ Chí Minh đã mang đến cho những người yêu nước Việt Nam sự thức tỉnh mới mang tính thời đại: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-nin” (2).

Quan điểm chủ đạo ấy đã được thể hiện rõ khi Người phác thảo nội dung, tính chất, bước đi của cách mạng Việt Nam: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi đến xã hội cộng sản” (3).

Dưới sự lãnh đạo của Đảng do Người sáng lập, rèn luyện, nhân dân ta đã lập nên những kỳ tích trong hai cuộc kháng chiến oanh liệt, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc vào ngày 30-4-1975. Đó là minh chứng hùng hồn về sức mạnh của một dân tộc khi đoàn kết lại chiến đấu cho khát vọng chính đáng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

2. Kiên định mục tiêu và chân lý của thời đại: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” ở Việt Nam, cũng có nghĩa là điểm kết thúc cách mạng dân chủ nhân dân, là sự mở đầu của công cuộc sáng tạo vĩ đại - cải biến xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Dĩ nhiên, bắt tay vào sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, khó khăn - cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - phồn vinh, hạnh phúc cho mọi người, mọi tầng lớp nhân dân không bao giờ đơn giản, hay có thể thực hiện trong ngày một, ngày hai.

Để làm vai trò lãnh đạo, cầm quyền, Đảng phải giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến “nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đưòng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”: Từ phân tích các nguồn lực đến xác lập một mô hình mục tiêu phát triển; từ xây dựng tổ chức bộ máy quản trị quốc gia đến huy động, sử dụng các nguồn lực bên trong, tận dụng các nguồn lực bên ngoài – thời đại, quốc tế; từ bảo đảm an ninh quốc gia đến giữ gìn trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường, điều kiện để hiện thực hóa mô hình đó. Sứ mệnh ấy không thể rập khuôn theo những mô hình có sẵn, cũng không thể là sản phẩm từ mong muốn chủ quan hay lòng từ thiện của một “thánh nhân” nào, càng không thể làm một lần là có ngay kết quả như mong đợi…

Trên thực tế, sau những sai lầm “chủ quan, duy ý chí”, với quan điểm “thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý”, Đảng ta đã dũng cảm nhận ra sai lầm và kiên quyết sửa chữa sai lầm, khởi xướng công cuộc đổi mới. Với tư duy, tầm nhìn hệ thống, biết sử dụng linh hoạt những hình thức trung gian quá độ, có bước đi phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa của dân tộc; mặt khác, biết kế thừa những thành tựu của nhân loại trong tiến trình phát triển mang tính đặc thù của dân tộc… đó là những kinh nghiệm được rút ra từ logic tiến trình đổi mới ở Việt Nam.

Tinh thần triết học của sự nghiệp đổi mới ở nước ta về cơ bản hội tụ trong đó những yếu tố của phép biện chứng trong nhận thức và vận dụng các khả năng của sự phát triển vì sự phát triển bền vững của quốc gia dân tộc trong thế giới đương đại. Trong đó, khơi dậy, phát huy tiềm năng sáng tạo của con người, vì con người là tư tưởng bao trùm.

Đổi mới thực chất là một quá trình cách mạng nhằm từng bước khẳng định tính chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội - một xã hội luôn hướng tới con người, tạo mọi điều kiện để con người phát huy những năng lực bản chất người, làm cho con người thực sự trở thành chủ thể tự giác, tích cực trong hoạt động sống - cũng là quá trình tái sản xuất ra đời sống của chính mình và của xã hội; là sự khẳng định con người - với tất cả các cấp độ tồn tại của nó, vừa là chủ thể đề xuất và thực hiện các mục tiêu phát triển, vừa là đối tượng thụ hưởng kết quả của tất cả các chương trình, dự án phát triển xã hội. Đây là nguồn gốc và động lực tạo nên những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới.

Vì thế, tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Đảng ta đã khái quát: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (4).

Xe tăng quân giải phóng tiến vào Sài Gòn năm 1975. Ảnh: TTXVN
Xe tăng quân giải phóng tiến vào Sài Gòn năm 1975. Ảnh: TTXVN

3. Trong thời kỳ đến, “tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi toàn Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình, chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống, nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt được” (5).

Theo tinh thần đó, tiếp nối và phát huy truyền thống các thế hệ đi trước, sứ mệnh của lực lượng lãnh đạo, cầm quyền - từ Trung ương đến cơ sở giờ đây là thổi bùng ngọn lửa thiêng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong toàn xã hội để hướng tới mục tiêu dân tộc phồn vinh và hạnh phúc; là khơi dậy khát vọng làm giàu và niềm tin vào chính mình, dân tộc mình, chế độ mình để vươn lên chiếm lĩnh tầm cao mới của sự phát triển.

Tầm vóc của nhân tố lãnh đạo và năng lực của Đảng cầm quyền lúc này phải được thể hiện qua việc từng bước hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, góp phần phát triển bền vững, hài hòa về xã hội và môi trường; là tìm kiếm và xây dựng các thể chế có thể khuyến khích, dung nạp sự tham gia đông đảo của người dân trong các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; là phát huy tối đa năng lực bản chất người Việt Nam.

Không chỉ tìm các giải pháp khơi dậy các nguồn lực bên trong, Đảng ta, nhân dân ta phải tạo lập các điều kiện cần thiết để chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thúc đẩy các quan hệ quốc tế đã thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định lâu dài, mở rộng những điểm tương đồng, thu hẹp những điểm khác biệt về lợi ích, phấn đấu không để những khác biệt biến thành mâu thuẫn hoặc xung đột lợi ích… “Với hướng đi đúng đắn, khát vọng phát triển mãnh liệt và quyết tâm chính trị cao, đất nước ta nhất định sẽ lập nên kỳ tích phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta”(6).

PGS.TS Hồ Tấn Sáng

______

(1) - Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, HN, 2021, tập I, tr 111-112; (2) - Hồ Chí Minh: sđd,  tr 268: (3) - Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, HN, 2000, tr1; (4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, HN,2021, tập I, tr 103-104; (5) trang 109; (6) trang 205.

;
;
.
.
.
.
.