Kỷ niệm 75 năm Ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946 - 19-12-2021): Đất anh hùng lần nữa quyết hy sinh

.

Cách đây tròn 75 năm, hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã một lần nữa đứng lên cùng đất nước, với quyết tâm “Thành Thái Phiên đắm mình trong khói lửa/ Đất anh hùng lần nữa quyết hy sinh”.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, với âm mưu xâm lược nước ta lần nữa, thực dân Pháp liên tiếp gây ra những vụ xung đột, lấy cớ xâm chiếm từng vùng, lấn tới từng phần, tiến tới thôn tính cả nước ta. Trước tình hình đó, ngày 18 và 19-12-1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội), Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, đề ra đường lối, quyết định cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Chiều 19-12-1946, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển đến các đơn vị lực lượng vũ trang mật lệnh ngày giờ cuộc giao chiến trong toàn quốc. 20 giờ ngày 19-12-1946, tín hiệu bắt đầu kháng chiến toàn quốc được phát ra, đồng thời quân và dân thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc.

Sáng 20-12-1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (được viết ngày 19-12-1946) được phát đi khắp cả nước. Đáp lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, 20 giờ ngày 19-12-1946, Ban chỉ huy Mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng nhận lệnh của cấp trên và quyết định giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 19, đúng 2 giờ sáng ngày 20-12-1946 nổ súng đánh địch tại sân bay Đà Nẵng, làm hiệu lệnh tiến công địch trên phạm vi thành phố; phá sập cầu Thủy Tú, Cẩm Lệ, Phong Lệ, nhà máy đèn, chặt cây cản đường, ra lệnh đồng bào tản cư; quyết định chuyển các cơ quan lãnh đạo của Đà Nẵng ra khỏi thành phố lên đóng ở Túy Loan (Hòa Vang), dời Trung đoàn bộ Trung đoàn 96 lên Khánh Sơn, rút phái đoàn ta ra khỏi Ủy ban liên kiểm Việt - Pháp. Trung đoàn 93 chuẩn bị đưa một bộ phận vào nội thành Đà Nẵng chiến đấu.

Gần đến giờ nổ súng, hiệu lệnh nổ súng ở sân bay đã không được thực hiện. Theo mệnh lệnh mới, các chiến sĩ của Tiểu đoàn 18 nổ súng đánh địch tại Cầu Vồng, tự vệ nhà máy đèn nổ mìn phá nhà máy, Trung đoàn 93 đánh sập cầu Cẩm Lệ, Phong Lệ, lực lượng công binh dùng địa lôi phá cầu Thủy Tú. Đến 8 giờ sáng 20-12-1946, tiếng súng đánh địch nổ vang khắp thành phố.

Quân Pháp báo động, tàu chiến ngoài biển bắn pháo vào, kết hợp lính ở Trẹm, đồn Khố Đỏ cùng với xe tăng tổ chức nhiều mũi tiến công nhằm vào hai hướng chủ yếu: từ nhà Bưu Điện, Cổ Viện Chàm, chợ Mới đến sân bay Đà Nẵng. Các mũi tiến quân của địch đều bị các chiến sĩ chặn đánh quyết liệt. Các đơn vị bố trí trên các đường phố, các cao điểm, nút giao thông, trong từng căn nhà, từng góc phố vẫn bám sát trận địa đánh địch.

Cuộc chiến diễn ra quyết liệt tại nhà Bưu Điện, nhà sách Thái Thị Bôi, nhà Thông tin, Cổ Viện Chàm, bót Đội Cung. Mặc dù lực lượng ta không cân sức với địch về vũ khí, kỹ chiến thuật, nhưng tinh thần chiến đấu thật dũng cảm, kiên cường! Các chiến sĩ quần nhau suốt cả ngày với địch, bám giữ từng căn nhà, góc phố, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của chúng. Ngày 21 và 22-12, các đơn vị tiếp tục chặn đánh địch nhiều nơi trong thành phố. Tại chợ Mới, các đơn vị bộ đội và du kích Hòa Vang bao vây, chặn đánh tiêu diệt nhiều tên địch, không cho chúng đi cứu viện đồng đội ở sân bay.

Cùng với lực lượng vũ trang, các đơn vị tự vệ trong các nhà máy, công sở và nhân dân nguyện hy sinh cả tính mạng, tài sản để đánh giặc bảo vệ thành phố. Ngay trong đêm 20-12-1946, nhân dân đem bàn ghế, giường tủ ra đường phố làm chướng ngại vật ngăn cản bước tiến của địch; đồng thời dỡ nhà, đục tường làm chiến hào ngay trong lòng thành phố để bộ đội chiến đấu. Nhiều thanh niên, học sinh hăng hái gia nhập các đơn vị chiến đấu đánh địch, vừa cứu thương, chăm sóc thương bệnh binh. Công nhân hỏa xa, bến cảng, lục lộ, thợ hồ, thợ sơn, xích lô... sát cánh cùng các đơn vị chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Lực lượng tự vệ và nhân dân hăng hái làm nhiệm vụ tải đạn, tải thương, tiếp tế các đơn vị.

Qua ba ngày chiến đấu, quân và dân Đà Nẵng thực hiện tốt nhiệm vụ chặn bước tiến, tiêu hao sinh lực và giam chân địch trong thành phố, tạo điều kiện để cán bộ và nhân dân rút ra ngoài, bảo tồn lực lượng chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài. Chiều 22-12-1946, Ban chỉ huy Mặt trận ra lệnh cho các đơn vị bộ đội rút ra khỏi trung tâm thành phố. Ngay sau đó, tỉnh chỉ đạo lập tuyến phòng thủ mới ở phía tây bắc thành phố, từ Phong Lệ, Nghi An, Hòa Mỹ, Đa Phước đến ngã tư Yên Khê. Ở phía nam sông Cẩm Lệ, tuyến phòng thủ từ Phong Lệ đến Non Nước được Trung đoàn 93 cùng với quân và dân Hòa Vang gia cố vững chắc, sẵn sàng đánh địch.

Từ ngày 26 đến 29-12-1946, quân Pháp huy động lực lượng lớn tấn công vào tuyến phòng thủ của ta tại Nghi An - Phước Tường. Hai đại đội của Tiểu đoàn 100, Trung đoàn 93 phối hợp với Tiểu đoàn 17 ngăn chặn địch, giữ vững phòng tuyến. Trên hướng đông nam, một tiểu đoàn địch từ Sơn Trà vào Non Nước bị Tiểu đoàn 102, Trung đoàn 93 chặn đánh buộc chúng co cụm về phía bắc Mỹ Thị. Ngày 31-12-1946, ta tập kích Mỹ Thị, tiêu diệt một trung đội địch.

Ngày 15-1-1947, địch mở hướng tiến công vào Non Nước nhằm nghi binh chuẩn bị tiến công ra đèo Hải Vân. Trung đoàn 93 phối hợp với dân quân tự vệ đẩy mạnh tiêu diệt địch, tạo điều kiện thuận lợi để Trung đoàn 96 bố trí lực lượng đánh địch tại đèo Hải Vân. Từ ngày 17 đến ngày 20-1-1947, Tiểu đoàn 19, Trung đoàn 96 phối hợp với các lực lượng tiêu diệt 200 tên Pháp, sau đó rút khỏi đèo Hải Vân.

Sau hơn một tháng kiên cường đánh địch, quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kìm chân địch, gây cho chúng thiệt hại lớn. Đồng chí Phạm Văn Đồng - đại diện của Trung ương và Chính phủ tại miền Nam Trung Bộ biểu dương: “So với toàn quốc, Mặt trận Đà Nẵng được liệt vào hàng đánh mạnh nhất, dẻo dai nhất” và tặng lá cờ thêu hai chữ “Giữ vững”. Sau đó, Ủy ban Quân sự Quảng Nam - Đà Nẵng trao tặng lại lá cờ cho Trung đoàn 96, đơn vị kiên cường trụ bám chiến đấu giữa nội thành.

Sau khi có thêm viện binh, Pháp củng cố lực lượng, tiến hành mở các đợt tiến công mở rộng địa bàn chiếm đóng, kết thúc chiến tranh. Tháng 1-1947, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng họp mở rộng tại Ái Nghĩa (Đại Lộc), chủ trương tăng cường bố trí vững chắc tuyến phòng thủ phía nam sông Cẩm Lệ; phát động nhân dân triệt để phá giao thông, làm chướng ngại vật, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, sẵn sàng tản cư thực hiện “vườn không nhà trống”.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Ủy ban Quân sự Mặt trận bố trí lại lực lượng: các tiểu đoàn của Trung đoàn 93 có nhiệm vụ tổ chức phòng ngự tuyến phía nam sông Cẩm Lệ, Trung đoàn 96 đứng ở Hòa Nhơn có nhiệm vụ đánh địch phía tây bắc huyện Hòa Vang. Dân quân du kích, nhân dân các huyện Đại Lộc, Điện Bàn, thị xã Hội An tích cực tiêu thổ kháng chiến, dựng chướng ngại vật chặn địch, sẵn sàng tản cư về phía nam sông Thu Bồn.

Quân Pháp chia làm hai cánh tiến công về phía nam, âm mưu đánh chiếm, hội quân tại Ái Nghĩa, nhưng bị các đơn vị của Trung đoàn 96 và Trung đoàn 93 phối hợp với dân quân du kích kiên quyết đánh trả, tiêu diệt. Do lực lượng chênh lệch nên địch chọc thủng được tuyến phòng thủ Non Nước của Trung đoàn 93, sau đó chúng chia làm hai cánh quân thủy, bộ tiến lên Đại Lộc nhưng bị lực lượng ta ngăn chặn, tiêu diệt hàng chục tên. Ngày 15-3-1947, quân Pháp chia làm 3 mũi đánh vào Hội An, các đơn vị của Trung đoàn 93 chiến đấu dũng cảm, sau đó rút về phía nam sông Thu Bồn để bảo toàn lực lượng. Pháp tạm chiếm được Hội An và toàn bộ phía bắc sông Thu Bồn, lên đến Ái Nghĩa, âm mưu tiếp tục tiến lên phía tây nhưng bị lực lượng ta ngăn chặn, đánh bại.

Đến cuối tháng 3-1947, kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp bị thất bại, buộc chúng phải dừng lại ở phía bắc sông Thu Bồn, thiết lập hệ thống đồn bót. Đây là thắng lợi có ý nghĩa quan trọng đối với chiến trường Nam Trung Bộ và với cục diện cả nước. Có được thắng lợi là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của các cấp ủy Đảng, trong đó có sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của các tổ chức Đảng trong lực lượng vũ trang, hiệu lực, hiệu quả của hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị và vai trò tiên phong, gương mẫu, đi đầu của đội ngũ đảng viên trong các đơn vị.

Cũng vào cuối tháng 3-1947, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tại Quế Sơn để học tập các quan điểm kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ tự lực cánh sinh của Đảng. Từ đây, cùng với cả nước, Đảng bộ, quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng bước vào giai đoạn trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đặc biệt, đúng 0 giờ 30 phút ngày 19-7-1954, ta tấn công tiêu diệt cứ điểm Bồ Bồ (xã Điện Tiến, thị xã Điện Bàn). Đến 4 giờ sáng ngày 19-7-1954, cứ điểm Bồ Bồ bị diệt gọn. Chiến thắng Bồ Bồ - trận “Điện Biên Phủ trên chiến trường Quảng Nam” góp phần chia lửa với chiến trường Điện Biên Phủ, làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc cuộc kháng chiến thần thánh 9 năm chống thực dân Pháp của dân tộc ta.

LÊ NĂNG ĐÔNG

Biên soạn theo cuốn: Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng 1930-1975, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006.

;
;
.
.
.
.
.