.

Băn khoăn trước một tin vui

UBND thành phố đã đồng ý giảm 40% giá trị vàng cho các hộ nợ tiền sử dụng đất tái định cư quy ra vàng 98% từ năm 2005 trở về trước và 10% đối với các hộ nợ từ năm 2006 đến 2010. Việc thành phố quyết định tiếp tục giảm giá trị vàng phải trả đối với các hộ nợ tiền sử dụng đất tái định cư quy ra vàng là một nỗ lực nhằm làm nhẹ gánh nặng của người dân trước tình hình biến động liên tục của giá vàng. Đây là một tin vui nhưng đối với những hộ nợ tiền đất tái định cư, trước tốc độ tăng phi mã của giá vàng, gánh nợ trên vai họ vẫn còn nặng trĩu.

Sự biến động của thị trường vàng mang lại những khoản lời cho một số người thì nó cũng khiến không ít người lâm vào cảnh nợ nần, thậm chí phá sản. Riêng đối với hàng ngàn hộ dân nợ tiền sử dụng đất tái định cư quy ra vàng thì đây quả là một mối lo. Có thể nhận thấy, những “con nợ” này phần lớn đều là hộ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, thu nhập thấp, nghề nghiệp không ổn định hoặc là những công chức Nhà nước với mức thu nhập vào loại trung bình.
 
Số vàng còn nợ Nhà nước là giá trị thực tế mà họ phải trả để có đất ở những khu dân cư mới, với cơ sở hạ tầng khang trang, hiện đại hơn. Nếu như trước năm 2005, khi giá vàng còn ở mức dưới 10 triệu đồng/lượng, nhiều gia đình vẫn còn có thể xoay xở được với khoản nợ dài hạn này. Nhưng từ đó đến nay, vàng tăng lên gần gấp 3 lần, có lúc lên đến hơn 29 triệu đồng/lượng thì nhiều người như “ngồi trên đống lửa”, thấp thỏm lo âu không biết bao giờ mới trả nợ xong.

Việc mua bán phiếu đất cho nợ dài hạn cũng bị đóng băng do người mua e ngại khoản nợ sẽ lớn dần theo thời gian, tỷ lệ thuận với sự tăng giá liên tục của vàng. Sẽ là may mắn nếu gia đình nào xoay xở trả hết nợ trong thời gian ngắn, ngược lại, thật là “thảm họa” khi chứng kiến giá vàng nhảy múa trong khi khoản nợ tính bằng vàng vẫn tiếp tục đeo bám.
 
Không trả được nợ đồng nghĩa với việc hàng trăm hộ dân chưa được cấp chứng nhận quyền sử dụng đất, các giao dịch mua bán đất vì thế cũng bị ảnh hưởng. Ước tính hàng nghìn tỷ đồng tiền đất quy ra vàng không được luân chuyển để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế cũng như nhu cầu đời sống của người dân. Rõ ràng, xét về mặt kinh tế, cả chính quyền và người dân đều không được lợi.

Giảm giá trị vàng phải trả đối với những hộ nợ tiền đất tái định cư là một tin vui nhưng vẫn chưa xua tan hết nỗi lo vì với họ, số tiền phải trả vẫn cao hơn mức ban đầu rất nhiều. Thời gian trả nợ kéo dài, vàng cứ tiếp tục tăng giá và phương án giảm giá trị vàng phải trả lại được đưa ra. Nếu chính quyền cứ mạnh tay, kiên quyết thu hồi nợ thì nhiều hộ dân không có khả năng trả sẽ rơi vào tình trạng nghèo túng. Nhưng nếu giãn thời gian nợ thì với biến động bất thường của giá vàng theo hướng ngày càng tăng sẽ làm cho khoản nợ của người dân mỗi lúc một nhiều thêm.

Nếu cứ để tình trạng này kéo dài thì cả người dân và chính quyền đều bị ảnh hưởng. Thiết nghĩ, bài toán này cho dù khó giải nhưng phải tìm ra đáp án trong thời gian ngắn, càng để lâu càng thiệt hại cho cả hai phía. Không chỉ gây ra sự bất an trong tâm lý của người dân mà còn tác động gián tiếp đến sự phát triển kinh tế của thành phố trong những năm đến.

HÀ AN

;
.
.
.
.
.