.
Bộ Giao thông Vận tải, Ngân hàng Thế giới và UBND TP Đà Nẵng:

Bàn phương án giải phóng mặt bằng và tái định cư Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi

.

(ĐNĐT) - Ngày 12-8, Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng Văn Hữu Chiến chủ trì buổi làm việc với Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) và Ngân hàng Thế giới (WB) về công tác giải phóng mặt bằng và tái định cư đoạn tuyến cao tốc qua địa bàn TP Đà Nẵng thuộc dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi.

Tại buổi làm việc, đại diện cơ quan quản lý chính của dự án, Công ty Đầu tư Phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC), cho biết Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi vừa được Bộ GTVT trình Chính phủ phê duyệt đầu tư. Đây sẽ là công trình giao thông có quy mô lớn nhất được triển khai ở khu vực miền Trung. Công trình có tổng chiều dài 131km với tổng mức đầu tư dự kiến 28.518 tỷ đồng (hơn 1,5 tỷ USD).

Phương án huy động vốn cho Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi sẽ được thực hiện theo cơ chế: Chính phủ đứng ra vay vốn của WB và Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) để VEC vay lại theo quy định hiện hành. Trong đó, vốn vay của WB là 576 triệu USD (38,4%), vay của JICA là 725 triệu USD (48,3%); còn lại 200 triệu USD (13,3%) là phần vốn đối ứng của phía Việt Nam, chủ yếu được dùng để giải phóng mặt bằng, lập và quản lý dự án.

Theo đề án được Bộ GTVT đệ trình lên Chính phủ thì tuyến đường cao tốc này đi qua địa phận thành phố Đà Nẵng và hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Đoạn tuyến cao tốc qua địa bàn thành phố Đà Nẵng có chiều dài khoảng 8km, chiều rộng hành lang đường là 70m, đi qua địa phận của 3 xã thuộc huyện Hòa Vang gồm Hòa Nhơn, Hòa Phong và Hòa Tiến.

Để hoàn tất công tác giải phóng mặt bằng làm cơ sở bàn giao cho việc thi công dự án, thành phố Đà Nẵng sẽ phải bố trí tái định cư cho 389 hộ bị ảnh hưởng với tổng diện tích đất cần thiết là hơn 35.000m2. Dự kiến kinh phí phục vụ giải phóng mặt bằng và tái định cư dành riêng cho Đà Nẵng là 95 tỷ đồng.

Theo đại diện của WB, việc triển khai dự án còn gặp vướng mắc do có sự khác biệt giữa khung chính sách giải phóng mặt bằng và tái định cư của WB và Chính phủ Việt Nam, chủ yếu là về khung giá đất đền bù, đất không đủ tiêu chuẩn đền bù, trợ cấp phục hồi thu nhập và tạo việc làm, mức hỗ trợ các hộ kinh doanh, đền bù cho nhà cửa và kết cấu. Vì vậy, hai bên cần bàn bạc thảo luận đưa ra khung chính sách thống nhất trình Chính phủ phê duyệt làm cơ sở triển khai dự án.

Hồ Nguyên






;
.
.
.
.
.