.

Ưu tiên tái cơ cấu thị trường tài chính, đầu tư và doanh nghiệp nhà nước

.

(ĐNĐT) - Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 3, chiều 21-5, Quốc hội đã nghe Tờ trình và báo cáo ý kiến về Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế.

Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư Bùi Quang Vinh trình bày Tờ trình về Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế. (Ảnh: Nhan Sáng/TTXVN)
Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư Bùi Quang Vinh trình bày Tờ trình về Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế. (Ảnh: Nhan Sáng/TTXVN)

Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh trình bày cho biết, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay, tái cơ cấu kinh tế bao gồm hai nội dung chủ yếu: tái cơ cấu ưu tiên trước mắt và tái cơ cấu trọng tâm, lâu dài. Về ưu tiên trước mắt, trong 5 năm tới ưu tiên tái cơ cấu thị trường tài chính, tái cơ cấu đầu tư và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.

Tái cơ cấu thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính, trước hết là để loại bỏ nguy cơ mất an toàn đối với hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung; đồng thời, tạo điều kiện để hệ thống tài chính phát triển bền vững và thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng trung gian tài chính và chuyển tải tác động của chính sách tiền tệ đến khu vực doanh nghiệp và hộ gia đình; làm tiền đề thúc đẩy tái cơ cấu trên các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Trong giai đoạn 2011-2015, tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động, hiệu lực quản trị, cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng; nâng cao trật tự, kỷ cương của quản lý nhà nước và đảm bảo nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng.

Tái cơ cấu đầu tư sẽ tập trung vào đổi mới căn bản cơ chế và cách thức huy động, phân bố, quản lý và sử dụng vốn đầu tư xã hội theo định hướng huy động hợp lý tổng đầu tư xã hội, đồng thời bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; duy trì tỷ trọng hợp lý đầu tư công trong tổng đầu tư xã hội đi đôi với tăng cường huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác và cải thiện hiệu quả đầu tư; xác định cụ thể lĩnh vực ưu tiên đầu tư của nhà nước; trước hết, tập trung vào các lĩnh vực, công trình quan trọng, công ích không có khả năng thu hồi vốn mà tư nhân không đầu tư hoặc không được đầu tư và đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cho vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc đặc biệt khó khăn; mở rộng phạm vi và cơ hội cho đầu tư tư nhân, nhất là tư nhân trong nước...

 
Hệ quả là, trước mắt, hàng nghìn dự án đầu tư, nhất là đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước, có thể phải đình hoãn; hàng chục nghìn doanh nghiệp, nhà đầu tư có liên quan sẽ bị thua lỗ, một phần vốn đầu tư của họ có thể không thu hồi được; nhiều doanh nghiệp có liên quan phải đóng cửa, giải thể hoặc phá sản; một số lao động tạm thời bị mất việc, giảm việc làm và phải chuyển đổi kỹ năng lao động; một số địa phương có thể phải thay đổi lại định hướng và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội với những phí tổn không nhỏ.

Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước không cần nắm giữ 100% sở hữu; thoái vốn ở các doanh nghiệp Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối; đổi mới, phát triển và áp dụng khung quản trị hiện đại theo thông lệ quốc tế đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Về lâu dài, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 đã xác định trọng tâm của tái cơ cấu kinh tế là “cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng, thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.”

Hàng nghìn dự án có thể hoãn

Theo đề án, thực hiện tái cơ cấu kinh tế có nghĩa là ít nhất trong một số năm trước mắt, các nguồn lực xã hội phải được phân bố lại trên quy mô lớn, và kết quả của quá trình nói trên có thể chỉ phát huy tác dụng trong trung hạn. Điều đó có nghĩa là trong những năm trước mắt, tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể không cao như kế hoạch, và có thể thấp hơn so với trước đây.

"Đây là thách thức không nhỏ trong bối cảnh tư duy, quán tính theo đuổi tốc độ và cách thức tăng trưởng theo chiều rộng vẫn còn khá phổ biến, nhất là ở các cấp chính quyền địa phương, những thay đổi để chuyển dần sang mô hình tăng trưởng mới là chưa thực sự rõ nét", Chính phủ đánh giá.

Liên quan đến băn khoăn về chi phí đã được đề cập tại ý kiến của Ủy ban Kinh tế và một số diễn đàn khác, Chính phủ cũng lường trước, rằng tái cơ cấu kinh tế có thể tác động không thuận đến một số nhóm người có liên quan, làm phát sinh một số chi phí xã hội cần được bù đắp.

"Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng không phải là gói cứu trợ nền kinh tế để vượt qua khủng hoảng, do đó, xét trên tổng thể, nó không làm tiêu hao nguồn lực của xã hội. Tuy vậy, đối với tái cơ cấu trên một số lĩnh vực và một số bên có liên quan, có thể phát sinh chi phí nhất định", đề án nêu.

Ví dụ cụ thể với xử lý nợ xấu, là một trong các nội dung tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại. Ước tính số nợ xấu chiếm khoảng 3,6% tổng dự nợ tín dụng của nền kinh tế. Nợ xấu được xử lý, bù đắp bằng quỹ dự phòng, vốn chủ sở hữu và bán lại cho các tổ chức mua bán nợ, và các bên khác có quan tâm.

Nếu các biện pháp nói trên không đủ để xử lý số nợ xấu, thì ngân sách nhà nước sẽ là nguồn cuối cùng để xử lý số nợ xấu còn lại. Như vậy, trong trường hợp này  ngân sách nhà nước có thể phải gánh chịu một phần chi phí trong xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại, Chính phủ phân tích.

Cũng theo đề án, tái cơ cấu kinh tế cũng có nghĩa là quy mô đầu tư, sản xuất một số ngành, một số vùng có thể thu hẹp lại. Thay vào đó, các vùng, ngành khác có tiềm năng hơn sẽ được mở rộng và phát triển. Hệ quả là, trước mắt, hàng nghìn dự án đầu tư, nhất là đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước, có thể phải đình hoãn; hàng chục nghìn doanh nghiệp, nhà đầu tư có liên quan sẽ bị thua lỗ, một phần vốn đầu tư của họ có thể không thu hồi được; nhiều doanh nghiệp có liên quan phải đóng cửa, giải thể hoặc phá sản; một số lao động tạm thời bị mất việc, giảm việc làm và phải chuyển đổi kỹ năng lao động; một số địa phương có thể phải thay đổi lại định hướng và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội với những phí tổn không nhỏ.

Giải pháp chưa gắn kết

Tại báo cáo một số ý kiến về đề án, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội "phê" 13 nhóm giải pháp chủ yếu tại đây chưa có sự gắn kết với nhau, cũng như chưa thực sự đồng bộ giữa các đề án tái cơ cấu các ngành, lĩnh vực và thiếu các giải pháp đối với vấn đề xã hội, môi trường. Đa số ý kiến thành viên Ủy ban Kinh tế đề nghị bổ sung một số giải pháp về mặt xã hội và bảo vệ môi trường để đảm bảo phát triển kinh tế bền vững.

Cơ quan này cũng đề xuất xây dựng đề án như một hệ thống chính sách để tập trung thực hiện 3 đột phá: về thể chế, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng đã được xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015.

Trên cơ sở đó, triển khai các đề án thành phần theo ngành, lĩnh vực, vùng, xác định rõ thứ tự ưu tiên, chủ thể thực hiện và lộ trình thực hiện tái cơ cấu bao gồm những ngành, lĩnh vực trọng điểm, cần thực hiện trước, những ngành, lĩnh vực thực hiện sau hoặc thực hiện đồng thời, có bước đi hợp lý tránh gây đột biến lớn với khung thời gian cụ thể là đến năm 2020.

Một số ý kiến khác đề nghị định hướng nội dung đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế phải xác định bao gồm tất cả các đề án thành phần và đánh giá tác động toàn diện nền kinh tế trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Đa số ý kiến thành viên Ủy ban Kinh tế cho rằng, việc tính toán chi phí để thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là hết sức cần thiết, nhất là trong điều kiện của Việt Nam nguồn lực bị hạn chế. Việc tính toán chi phí này sẽ góp phần xác định những nội dung cần ưu tiên thực hiện, tránh dàn trải, lãng phí. Ngoài ra, phải tính toán về chi phí xã hội, môi trường, an ninh, quốc phòng, đối ngoại của đất nước… là cần thiết để có giải pháp phù hợp.

Theo TTXVN, VnEconomy

;
.
.
.
.
.