.

Làm ăn với miền Trung

Nhiều doanh nghiệp kinh doanh nước giải khát, sau những đợt tiếp thị mời uống thử miễn phí khắp cả nước, đã có một nhận xét: Khó mời người miền Trung uống thử nhất! Trẻ em chen nhau thử, còn người lớn quan tâm lắm cũng chỉ đứng lại xem, gật đầu cảm ơn khi được mời rồi cười và đi thẳng.

Nếu người Sài Gòn hoặc Nam Bộ được mời, bất kể là người lớn hay trẻ em cũng vui vẻ cầm ly. Người miền Bắc thì khó hơn một chút, nhưng khó như người miền Trung thì quả hy hữu. Thật ra, người miền Trung nói ở đây là người ở Quảng Nam - Đà Nẵng, nơi mà các hội chợ và các đợt tiếp thị tổ chức nhiều nhất. Với địa hình trải dài, ngăn cách nhiều bởi núi đèo, ngay giọng nói của mỗi tỉnh đã mỗi khác nên tính cách của người miền Trung cũng thật khó mà  “gom” lại một mối như Nam Bộ, hoặc Bắc Bộ. Tuy vậy vẫn có cái gì đó giống nhau trên suốt dải đất này.
 
Ví dụ như chuyện cái ang. Miền Bắc có cái yến là 10 ký, miền Nam có cái giạ là 20 ký, miền Trung có cái ang... không ai biết là mấy ký! Nơi 36 lon, nơi 32, 30, 28... Ngay bản thân cái lon cũng có lon đáy bằng, đáy lõm. Cách đong cũng có nơi đong gạt bằng miệng lon, có nơi lại đong vun đầy hết cỡ. Không phải chỉ chuyện cái ang đong gạo là cái thứ sát sườn hằng ngày đã rất không thống nhất, các thứ khác cũng vậy, hầu như chẳng có cái gì làm chuẩn. Nếu miền Bắc, miền Nam cái cân được sử dụng để cân từ rau hành đến cá, thịt thì ở miền Trung tất cả đều được định bằng mớ.

Mớ cá nục là 12 con, không cần biết con lớn hay con nhỏ, chỉ đôi mắt “kinh nghiệm” mà định giá rồi trả. Con gà con vịt cũng vậy, không cân mà cầm trên tay lắc lắc mấy cái, bóp bóp cái lườn mà theo giá rồi trả. Mấy cô dâu ngoài Bắc hoặc Nam về Trung, ban đầu than trời vì cách mua bán chẳng cần đo lường này. Riết rồi đến khi quen, thấy cái cân thời hiện đại, ngàn đồng hành lá mà cũng cân thì trông nó lại lạnh lùng.

Chuyện mua bán kinh doanh “tiếp thị” của các bà, các chị, và cả các ông nữa, nó cũng chẳng giống ai. Một lần, tôi dừng xe bên lề đường trước chợ để mua bó chè xanh. Tôi nói câu “Bà bán con bó chè xanh” 3 lần mà bà già vẫn cứ tỉnh bơ. Một cô gái bán rau bên cạnh đứng dậy cầm bó chè đưa tôi rồi bảo: “Lần sau anh mua thì dựng xe bước vào. Đứng trên xe thế này bà cụ không ưng!”.
 
Không phải chỉ mấy bà già không lấy chuyện đồng lời làm trọng, chỉ lấy chuyện bán mua làm vui, ngay cả một cửa hàng trên phố cũng một cái tính cách bất cần như vậy. Có dạo, trên đường Phan Châu Trinh có một dãy phố chuyên kinh doanh việc in ấn. Mọi chuyện kinh doanh êm đẹp bỗng đâu một người trương lên tấm bảng “Đại hạ giá in thiệp mùa cưới”. Vậy là hàng loạt cửa hàng khác cũng phải treo bảng “đại hạ giá” theo.
 
Một chủ hàng dân Quảng Nam gốc tức mình mới treo lên tấm bảng “Đại lên giá”! Cái cửa hàng “đại lên giá” ấy, cuối cùng lại đắt khách hơn các cửa hàng “đại hạ giá” khác! Còn nhiều lắm những chuyện trái khoáy như vậy ở vùng Quảng Nam. Ví dụ như chuyện bát đường đen, người ta vẫn cứ giữ cách ép mía, nấu đường cũ kỹ, mặc cho các phương pháp chế biến mía đường của người Quảng Ngãi ở tỉnh bên cạnh đã vô cùng tinh xảo, cho ra hàng chục sản phẩm cao cấp như đường trắng, đường phèn, đường phổi...

Xâu chuỗi các chuyện trái khoáy này, có khái quát được gì nhằm nhắc nhở các doanh nghiệp khi đến làm ăn ở vùng này? Đó là tính cách gì vậy? Bảo thủ, lạc hậu? Xin đừng quên đây là quê hương của phong trào Duy Tân, canh tân đất nước hồi đầu thế kỷ 20. Thật ra, người miền Trung còn xa lạ lắm một nền văn minh giao tiếp sang trọng, quý tộc.

Ông bạn tôi người Quảng Nam giàu có lắm ở đất Sài Gòn mấy chục năm nay, nhưng đến ăn nhà hàng nào có nhân viên phục vụ đứng kề bên là ông chịu, ăn không vô. Tương tự, các cánh cửa kính ngó đẹp vậy chứ là vật cản khách hàng đó. Nhiều người đi mua sắm, thấy cái cửa kính thì thường ngại bước vào.

Trở lại câu chuyện tiếp thị nước giải khát. Nhà văn Nguyễn Văn Xuân khi chưa từ giã cõi đời này có lần bảo: “Sao không biếu người ta gói nhỏ về nhà pha uống thử, cứ gì phải đứng uống như đói khát lắm giữa đường giữa chợ như vậy!”. Thì ra là thế. Chưa thấy ai làm thử nhưng câu nói của ông làm rõ mọi chuyện. Các doanh nghiệp đừng bảo nhân viên mời mọc hoặc đi theo khách hàng phục vụ họ bất cứ việc gì.

Người miền Trung chúa ghét chuyện mời mọc. Người Bắc thì cho đó là giòn giã, đon đả, người Nam thì cho đó là nhiệt thành, lôi cuốn và sự mời mọc thường đem lại kết quả. Thế mới hay cái lý của người Nhật trước khi quyết định đầu tư vào đâu thường cho các nhà nghiên cứu đi trước.
                                                  
Hà Vỹ


;
.
.
.
.
.