“Nói “không” với cái xấu, cái ác là cần thiết nhưng quan trọng không phải là những cái “không” mà làm ra một cái “có”; trên cơ sở cái “có”, hãy tập trung vào xây dựng một chiến lược phát triển giáo dục cho thế kỷ 21. Đừng chần chừ! Mất thời gian là mất tuyệt đối”.
Vẫn cung cách ấy, quyết liệt rạch ròi, giáo sư Hồ Ngọc Đại khẳng định: “Những đứa trẻ của thế kỷ 21 không phải là những đứa trẻ của thế kỷ 20. Chúng đi xe hiện đại, sử dụng điện thoại di động hiện đại, sử dụng Internet siêu tốc và máy vi tính hiện đại. Ngay cả đồ chơi và trò chơi chúng cũng không còn chơi những đồ chơi và trò chơi của các thế kỷ trước. Do đó, chúng rất cần được hưởng nền giáo dục hiện đại, nội dung hiện đại, phương pháp hiện đại thì ngược lại, chúng đang bị “nhốt” trong cái lồng quá cũ và được “nhồi nhét” kiến thức theo phương cách cũ. Tóm lại, trẻ em hôm nay cần một nền giáo dục khác. Rồi vẫn sự quyết liệt có phần bỗ bã ấy, bạn tôi ưu tư: “Loạn trường đại học, loạn giáo sư, loạn tiến sĩ… Cái cần “nổi loạn” nhất là sự nổi loạn của tư duy thì lại trì trệ, lại không dám, chỉ biết cam chịu”.
Chính vì chuyện “nổi loạn” này mà cần nhắc lại đây một kỷ niệm của buổi chiều trung du ấy. Trong một tâm trạng buồn, tôi rủ Đại, mượn cớ về thăm một bạn học cũ từ những năm 1951-1954 giờ về hưu ở trường làng, kiếm sống nhờ nghề đoán số tử vi, xem bói và viết sớ ở Đền Hùng, để lang thang vùng Đoan Hùng, Vũ Ẻn. Xe bon giữa những rừng cọ đồi chè tuyệt đẹp, im lặng đắm mình trong cảnh sắc trung du, chợt bừng tỉnh bởi ríu rít tiếng cười, lao xao ồn ào giọng nói của đám trò nhỏ tan trường chạy ùa từ ngõ xóm ra đường cái. Hồ Ngọc Đại yêu cầu cho xe dừng từ lúc nào giữa đám chim sẻ rừng ấy.
Nhìn Hồ Ngọc Đại mái tóc cũng đã bạc chẳng kém tôi là bao, đang đứng giữa tụi nhỏ ríu ra, ríu rít vì nhận được người quen, đứa níu tay, đứa kéo áo, Đại cười sung sướng, kính cận nhòe ướt, tôi bất giác cũng rút khăn tay lau mắt. Khi đã ngồi trong xe tiếp tục cuộc hành trình giữa hoàng hôn của núi đồi Phú Thọ, Đại giải thích cho tôi về cuộc hội ngộ kỳ thú ấy. Thì ra, bọn trẻ nhớ mặt anh. Nhớ “thầy giáo sư có đeo kính làm gì to lắm” nhưng sau khi dự giờ dạy của lớp “thực nghiệm công nghệ giáo dục CGD" lại đá cầu với chúng ở sân trường tiểu học heo hút này.
Tôi bỗng bật ra một câu không ra đầu, ra đũa “Cậu thế là sướng”! Và để giải thích, tôi nhắc lại với Đại: “Cậu nhớ tớ đã trả lời câu hỏi của cậu cách đây ngót hai chục năm: dứt khoát từ chối những cái chức vụ ấy, đừng dại mà nhận, dây vào những cái đó sẽ làm hỏng sự nghiệp của cậu”. Đại cười hề hề, thoải mái và hồn nhiên: “Ừ, quả có thế. May thật”! Rồi sau đó, chúng tôi lại đắm mình trong tư tưởng vừa chợt gợi ra. Trong thâm tâm, tôi vẫn tự thấy mình không đủ tài, không đủ bản lĩnh như Đại để ký cược toàn bộ cuộc đời cho sự nghiệp vì những thiên thần trẻ thơ này, đeo đuổi công cuộc nghiên cứu thực nghiệm công nghệ giáo dục theo triết lý “vì hạnh phúc ngay hôm nay của con em chúng ta, mỗi ngày đến trường thực sự là một ngày vui”. Thành bại thì chưa rõ ngay được, nhưng cao quý và thanh khiết thì tôi cảm nhận được tự đáy lòng.
Vì thế, tôi hay nghĩ đến Đại như nghĩ đến một công việc mình ấp ủ mà không có điều kiện đeo đuổi, còn vì có lẽ mình thấp hơn Đại nửa cái đầu về tri thức để thực hiện khát vọng sự nghiệp của mình, và rồi chỉ hồi hộp dõi theo hành trình của bạn. Cái hôm nhận được tin từ Hà Nội cho biết Đại phải cấp cứu tại bệnh viện vì một ca bệnh hiểm nghèo, tim tôi như có bàn tay ai bóp chặt, nước mắt trào ra, tôi cứ nghĩ đến điều gì. Thằng này mà ra đi thì cái sự nghiệp nó đeo đuổi khó có người gánh thay, nhất là lúc đất nước cần những cái đầu như nó. Càng nghĩ càng rối ruột, ngồi trước máy tính định viết lăng nhăng cái gì đấy cho quên nỗi lo mà kính cứ nhòe đi chẳng sao bấm được con chữ. May mà sự căng thẳng ấy chỉ kéo dài một buổi, tiếng Đỗ Nhân từ Hà Nội: “Ổn rồi, thằng Đại sống rồi”. Đến lúc này tôi mới bật khóc, nước mắt giải tỏa nỗi lo. Hơn nửa thế kỷ, tình bạn giữa chúng tôi quý hơn nhiều thứ trên đời. Nhưng riêng với Hồ Ngọc Đại, tôi còn dành một khoảng kính trọng vì bản lĩnh và sự nghiệp mà Đại đeo đẳng, mặc dù tôi hiểu khá rõ nhược điểm của bạn tôi, mà tôi thì nửa đường đứt gánh, chỉ còn đóng góp cho giáo dục, cái nghề tôi yêu quý một cách gián tiếp. Cho nên, cứ gặp các trò nhỏ là tôi lại nghĩ đến Đại.
Ví như cái lần tôi bất chợt gặp các cháu nhỏ ngồi sưởi bên ngọn lửa được nhóm lên cuối chân đèo khi xe tôi vượt qua Cổng Trời từ Mèo Vạc về Đồng Văn vào buổi chiều mù sương mà ánh nắng chỉ còn vẽ nên một đường viền mờ nhạt bên sườn núi phía trước nơi có con sông Nho Quế huyền ảo uốn lượn bên dưới. Dừng xe hỏi chuyện, biết các cháu là học trò lớp ba, lớp bốn, đi học vào buổi sáng để buổi chiều đi chăn bò, các cháu ngồi sưởi, đợi cho bò gặm nốt ít cỏ trước khi lùa về. “Nó học giỏi nhất ở đây đấy, mình nó lớp bốn thôi”, chỉ vào một bé gái trùm chiếc khăn xanh đã bạc màu, một bé trai đội chiếc mũ nồi đen có mấy lỗ thủng vừa cười vừa nói.
“Thế chừng nào mới lùa bò về, nhà cháu ở tận đâu?”, tôi hỏi cháu. “Đấy, kia kìa”, bé gái trả lời. Theo hướng tay và ánh mắt của cháu, tôi nhìn xuống những mái nhà lờ mờ trong sương chiều dưới thung lũng thấp thoáng ánh đèn khi mờ khi tỏ. Con sông Nho Quế thơ mộng chỉ còn là một vệt uốn lượn thấp thoáng mà ráng chiều chẳng rọi tới được. Ngọn lửa sưởi của các cháu nhóm giữa đường đèo sao mà xao xuyến. Không nói nổi lời từ biệt các cháu, tôi rút vội chiếc bút máy cài trên túi áo rồi đặt nhẹ vào tay bé gái. “Không lấy đâu, không lấy đâu”, bước vội về phía tiếng còi xe đang giục vì đoạn đường về huyện Đồng Văn còn xa, tôi chỉ kịp nghe tiếng vọng của bé gái. Xe chạy, ngoái nhìn lại, các cháu đã đứng chụm lại cả giữa đường nhìn theo trong mù sương của núi rừng Hà Giang. Đến bao giờ tôi mới gặp lại được các cháu bé nhỏ đáng yêu của tôi mà tôi đã có dịp viết trên tuần báo Văn Nghệ năm nào.
Câu hỏi ấy cứ ong ong mãi trong tôi cũng hệt như hôm nào cũng trong chuyến đi dài ấy, một buổi trưa tháng tư nắng gắt ở tận cùng xóm Đất Mũi, đang loay hoay bên tấm panô lớn ghi dũng chữ “Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mũi Cà Mau” để tìm một thế đứng chụp bức hình kỷ niệm, tôi bắt gặp một chú bé Đất Mũi. Đây rồi, nơi “ngón chân cái của Tổ quốc chưa khô bùn vạn dặm”, biểu tượng tuyệt vời trong ngữ ảnh của văn Nguyên Tuân từng ghi đậm trong tôi từ mấy chục năm trước khi đất nước còn bị chia cắt, tôi bắt gặp đúng “nhân vật” mong ước. Như từ một vũng bùn chui lên, chú bé lấm lem từ đầu đến chân với một xâu cá cầm tay, chỉ có đôi mắt xếch là ngời sáng. “Bác chụp hình cháu đấy à, có cho cháu hình không?”.
“Chắc chắn phải gửi hình cho cháu”, tôi đáp, “nhưng cháu phải cho địa chỉ, nhà cháu ở đâu”. Chú bé ngước mắt “kia kìa”. Theo ánh mắt cháu, khuất sau những lùm cây xa tít, có những nóc nhà nhô lên. “Nhưng cứ gửi về trường cháu, có mình thầy giáo ở đấy, bưu điện vẫn mang thư và báo về cho thầy. Chiều nào cháu chẳng ở đấy để nghe thầy kể chuyện và đọc báo”. Tôi tiếc là không còn đủ thời gian để theo cháu về gặp thầy giáo kính yêu của cháu, nhưng qua câu chuyện của cháu bé lớp ba này, tôi hiểu ông thầy ấy đó ghi dấu ấn đậm như thế nào trong tâm hồn cháu. Với giọng trìu mến chân thành, cháu nói về thầy giáo của mình ở tận đẩu tận đâu xa lắm về đây dạy học, thầy ở một gian nhà nhỏ áp lưng với phòng hiệu trưởng, thầy yêu chúng nó lắm. Xem ra bọn trẻ quấn quýt thầy giáo của mình suốt ngày, không chỉ ở buổi lên lớp.
Ghé vào tai tôi, cháu nói khẽ “Chỗ cá này, lát nữa cháu sẽ lén để vào cái rổ, lấy chậu úp lên, cạnh bể nước, chứ đưa cho thầy, thầy mắng cho đấy”. Một cảm xúc dâng trào thắt chặt trái tim tôi. Chao ôi, có món quà 20 tháng 11 nào đẹp bằng xâu cá của cậu bé Đất Mũi này vừa ngụp lặn dưới bùn để có nó đem biếu thầy, mà “biếu lén”. Đột nhiên, tôi nhớ đến đốm lửa bên chân đèo Cổng Trời - Mèo Vạc, nhớ đến ánh mắt đen láy của cô bé lớp bốn vùng cao, cố hình dung xem cô giáo của cháu ra sao và chắc cô cũng được các trò nhỏ quây quần thương quý như cậu trò nhỏ Đất Mũi và các bạn của cháu đối với thầy giáo quý yêu của chúng đây kia.
Nâng niu, khơi động và bồi đắp những tình cảm trong sáng kết tụ trong ánh lửa ấm sáng của trí tuệ và tình người ấy đã hun đúc nên cái đạo làm người vốn là nét rất đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc khiến cho người thầy và nghề thầy giữ một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần của nhân dân ta. Đó chính là điểm tựa để phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Và rồi tôi nhớ đến bạn tôi, Hồ Ngọc Đại, một trái tim dành trọn cho sự nghiệp giáo dục và một cái đầu không hề nhỏ đầy ắp những ý tưởng táo bạo để vượt lên trước cái hiện thực mênh mông của thực trạng giáo dục với la liệt những bằng khen, giấy khen, huân chương, học hàm học vị và những lời xưng tụng.
Rất ngẫu nhiên mà có sự kết hợp hình ảnh các cháu bé ở hai đầu đất nước, từ Lũng Cú Hà Giang đến Đất Mũi Cà Mau trong câu chuyện tình cờ. Nhưng cái tình cờ ngẫu nhiên ấy lại nói về “nền giáo dục cho 100% dân cư”, một khái niệm Hồ Ngọc Đại đưa ra nhằm khẳng định một nguyên lý giáo dục mới, thay cho nền giáo dục chỉ dành cho 5% dân cư. Thế là từ câu chuyện các cháu bé với thầy cô của chúng lại dẫn đến câu chuyện rất lớn về nguyên lý giáo dục.
Hình ảnh các cháu bé vừa phải đi chăn bò vừa đi học, và “cô giáo dưới xuôi” lên dạy các cháu, cứ như lời thách thức thầm lặng và sống động của sự chuyển đổi nguyên lý giáo dục, từ nền học vấn dành cho số ít người trở thành nền học vấn cho 100% trẻ em đến tuổi học trong thời đại của cách mạng thông tin và kinh tế tri thức. Đây không chỉ là chuyện của Việt Nam. Sự khủng hoảng về nguyên lý và phương pháp của hệ thống giáo dục và đào tạo đang là vấn đề của hầu hết các quốc gia. Thì chỉ cần đọc khuyến cáo của Tổng thống Pháp trong thư gửi các thầy giáo nhân ngày khai giảng năm ngoái là có thể bắt gặp điều đó: “Điều chúng ta cần làm, ấy là đặt nền tảng cho những nguyên lý của nền giáo dục thế kỷ thứ 21, những nguyên lý không còn có thể dừng lại ở trình độ những nguyên lý của hôm qua, lại càng không sao thỏa mãn được với những nguyên lý có từ hôm kia”.
Chắc rồi phải thay chiếc bút tặng cháu bé chăn bò ở cuối chân đèo từ Mèo Vạc về Đồng Văn vào buổi chiều mù sương dạo ấy bằng chiếc máy tính cầm tay thôi! Tuy cháu bé của tôi còn mặc áo vá, vừa buổi học buổi chăn bò bên sườn đèo mù sương lạnh buốt, nhưng chính cháu đang sống trong thời đại của Internet nối mạng toàn cầu. Và đúng như ai đó đã cảnh báo: “Liệu chúng ta có đủ dũng cảm để phi cấu trúc hóa cơ chế cứng nhắc hiện tại dù biết nó từng vận hành tốt trong quá khứ. Chúng ta thường chấp nhận phán quyết từ quá khứ và sa vào tình trạng chây ì, cho rằng đã cố gắng hết sức cho tới khi yêu cầu thay đổi lớn đến mức buộc chúng ta phải bước qua những ranh giới quen thuộc lâu nay. Đã đến lúc đó rồi”. (Tạp chí Harvard Business Online).
Cái “cơ chế cứng nhắc đó” là gì nhỉ khi vào năm học này cả nước có gần 22 triệu học sinh, sinh viên, chiếm hơn 1/4 dân số (mầm non gần 3,4 triệu, tiểu học có 6,7 triệu, trung học có 9,3 triệu, trung cấp chuyên nghiệp khoảng 710 nghìn, cao đẳng và đại học khoảng 1,6 triệu). “Đã đến lúc đó rồi”, phải đặt 22 triệu những người sẽ là và đang là chủ thể của xã hội mới vào trong bối cảnh của nền văn minh trí tuệ và kinh tế tri thức đang giữ nhịp cho đời sống hiện đại của thế kỷ XXI. Hồ Ngọc Đại có lý khi nói một cách “cực đoan” rằng: “Phải coi thế kỷ 20 ra đi như một kẻ đột tử mà không thể “ăn bám” vào nó thêm nữa. Do đó, thế kỷ 21 phải tự lo liệu thân mình. Đây là hai thế kỷ hoàn toàn khác nhau về bản chất”.
TƯƠNG LAI
.
.
CẢM NHẬN VÀ GHI CHÉP NHÂN NGÀY 20 THÁNG 11
Ánh lửa của trí tuệ (Kỳ 1)
Thứ Tư, 19/11/2008, 07:33 [GMT+7]
.
;
.
.
Các tin khác
- Tăng cường hợp tác về giáo dục- đào tạo giữa Đà Nẵng - Queensland
- "Cửa thoát hiểm" cho Làng đại học
- Khoa Y Dược - Đại học Đà Nẵng khai giảng khóa đầu tiên
- Biểu dương 36 cá nhân, tập thể đạt danh hiệu “Gia đình hiếu học và học hành thành đạt”
- Khen thưởng đội bóng đá sinh viên Trường Đại học Thể dục-Thể thao Đà Nẵng
- Năm học 2010-2011, học sinh lớp 3 phải học môn ngoại ngữ bắt buộc
.
.
.
.
.