.

Người giáo viên - nhân tố quyết định chất lượng giáo dục

Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI đang phải đối mặt với nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết. Một trong những vấn đề đó là mâu thuẫn ngày càng cao của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực trạng giáo dục còn có nhiều bất cập tồn đọng có tính lịch sử không thể giải quyết một sớm một chiều, đặc biệt là trong chất lượng dạy và học.

Mặt khác, thị trường việc làm hiện nay đã có nhiều thay đổi theo hướng tăng nhanh số lượng việc làm đòi hỏi trí tuệ cao và tập trung nhiều ở khu vực dịch vụ, khu vực công nghệ. Đây là thách thức lớn của bất kỳ một quốc gia nào khi bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Không còn cách nào khác, muốn đất nước ổn định phát triển trong thời kỳ hội nhập thì phải tìm ra lời giải cho bài toán về nâng cao chất lượng giáo dục. Để giải bài toán về cải thiện và nâng cao chất lượng giáo dục cần nhiều biện pháp đồng bộ, quyết liệt, có tính hệ thống; một trong những biện pháp quan trọng là nâng cao chất lượng đội ngũ GV!

Đặc điểm loại hình lao động của GV có nhiều nét đặc thù, nó góp phần hình thành phẩm chất, năng lực cần thiết của con người, có quan hệ chặt chẽ đến việc xây dựng lực lượng lao động. Đối tượng lao động của người GV không phải là đồ vật mà là con người. Đối tượng đó vừa là khách thể vừa là chủ thể của quá trình giáo dục.
 
Do đó, lao động sư phạm là một loại hình lao động đặc biệt và phức tạp, đòi hỏi nhiều kỹ năng và tâm huyết của GV. Nét đặc thù trong loại hình lao động của người GV càng được thể hiện rõ khi chúng ta đang dần bước vào nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế này xuất hiện đã tạo ra những biến đổi to lớn trong mọi mặt hoạt động của con người và xã hội, khác hẳn nền kinh tế chủ yếu dựa vào sức người và tài nguyên.

Để đảm đương được vai trò của người GV trong thời kỳ hội nhập, đặc biệt là trong nền kinh tế tri thức, trước hết cần chú trọng chất lượng đào tạo sinh viên (SV) sư phạm. Trong các trường đại học, cao đẳng sư phạm, SV phải được đào tạo bài bản, có năng lực tiếp thu, cập nhật những tri thức tiên tiến. Muốn vậy phải quan tâm đặc biệt khâu tuyển sinh cùng với những chế tài thu hút người tài vào các ngành sư phạm.

“Để cung cấp cho người học một hạt nhỏ hào quang kiến thức người thầy giáo đã phải uống cạn một biển cả ánh sáng” (Ginôviép). Câu nói đầy tính hình tượng trên phần nào cho thấy muốn đáp ứng được vai trò là người dẫn dắt, gợi mở để học sinh tự tìm tòi và tiếp cận tri thức, người GV phải có năng lực chuyên môn vững vàng.
 
Người GV trong thời kỳ hội nhập phải không ngừng tự bồi dưỡng, tự tích lũy trau dồi công tác chuyên môn, đồng thời không ngừng nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ. Người GV hôm nay cần có kiến thức sâu rộng, vững chắc, phương pháp sư phạm phù hợp, hơn thế phải biết học suốt đời để luôn theo kịp nhịp sống và hơi thở thời đại.

Trong hành trang của người GV dù ở bất cứ thời đại nào vẫn cần một bầu nhiệt huyết, một trái tim yêu nghề. Mỗi người thầy giáo phải là một tấm gương sáng về đạo đức, nhân cách để học trò noi theo. Nhân cách đó bao gồm tâm hồn, tư tưởng, phong cách sống của người GV. Nếu người GV thiếu nhân cách thì không thể giáo dục nhân cách cho học sinh. Những người thầy nổi tiếng trong lịch sử là những tấm gương mẫu mực về nhân cách.

Chu Văn An - một nhân cách lớn được người đời tôn vinh là “vạn thế sư biểu” (người thầy của muôn đời) là vì thế. Đáng tiếc là ngày nay, khi nền kinh tế đất nước đang có sự chuyển biến tích cực thì mặt trái cơ chế thị trường đã ảnh hưởng tiêu cực đến một bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục:

Căn bệnh thành tích, nạn mua bằng, bán điểm, cá biệt còn có những GV vi phạm nghiêm trọng đạo đức nhà giáo, ít nhiều gây tổn hại đến hình ảnh tôn nghiêm của người thầy giáo. Cần có những chế tài xử lý nghiêm những cán bộ, GV không còn đủ phẩm chất, tư cách, nhất thiết không để “con sâu làm rầu nồi canh”, mang lại niềm tin cho nhân dân.

MINH TUẤN

;
.
.
.
.
.