(Tiếp theo và hết)
* Thầy Thái Trung, chuyên viên Sở Giáo dục-Đào tạo, phụ trách môn Toán:
Thường đề thi môn Toán có cấu trúc gồm 2 phần: Phần chung và phần riêng. Trong đó, phần chung có 3 câu hỏi; phần riêng có hai phần nhỏ, mỗi phần có 2 câu hỏi, học sinh chỉ chọn 1 trong hai phần của phần riêng để làm bài. Đây là cấu trúc đề thi môn Toán năm 2010 đã được Bộ Giáo dục-Đào tạo công bố cho học sinh biết. Sau khi nhận đề thi, học sinh không nên vội vã làm bài ngay, cần dành vài phút để đọc lướt qua toàn bộ đề.
Câu nào dễ thì làm trước, câu nào khó làm sau. Đây là cách tự tạo tâm lý bình tĩnh, tự tin cho mình trong phòng thi. Các em không nên làm bài từ câu 1 đến câu cuối, vì khi gặp phải câu khó, sẽ làm các em lúng túng, rối trí. Học sinh chỉ cần học chăm chỉ, nắm vững kiến thức lớp 12 là làm bài thi tốt. Ngoài ra, cũng cần lưu ý, nếu các em làm xong bài thi mà chưa hết thời gian thì nên ngồi lại dò bài, nhằm phát hiện sai sót và điều chỉnh kịp thời; không nên ra ngoài sớm, vì lỡ nhớ có thiếu sót trong bài làm thì không thể trở vào phòng thi được.
* Thầy Huỳnh Tấn Phúc, Phó phòng Giáo dục trung học, thuộc Sở Giáo dục-Đào tạo, phụ trách môn Ngữ văn:
Đối với môn Văn, trước hết, học sinh phải nắm vững cấu trúc đề thi tốt nghiệp năm 2010 mà Bộ Giáo dục-Đào tạo đã công bố để ôn tập. Đề thi thường sẽ có hai phần: phần chung và phần riêng. Ở phần chung có hai câu: câu 1 yêu cầu tái hiện kiến thức về một giai đoạn văn học hoặc tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam hoặc nước ngoài.
Để làm tốt phần này, học sinh phải học thuộc, nắm vững kiến thức về tác giả, tác phẩm; câu 2 yêu cầu vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết bài nghị luận xã hội ngắn. Ở câu hỏi này, đòi hỏi học sinh phải giải thích ngắn gọn yêu cầu của đề thi và nhận xét, đánh giá được vấn đề, qua đó, nói lên suy nghĩ và hành động của bản thân.
Về phần riêng: học sinh ban nào thì làm theo câu hỏi của chương trình ban đó. Yêu cầu của phần này là học sinh vận dụng khả năng đọc-hiểu kiến thức văn học để viết bài nghị luận văn học. Muốn làm tốt câu hỏi phần riêng, học sinh phải nắm vững các kỹ năng làm bài nghị luận văn học (phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, xây dựng luận điểm, dựng đoạn...) và nắm được giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cơ bản của tác phẩm để vận dụng, giải quyết theo yêu cầu của đề.
Đối với các tác phẩm văn học Việt Nam, đề thi ra giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám (1945) đến hết thế kỷ 20. Để đạt điểm tối đa môn Văn, ngoài việc trả lời được các yêu cầu của đề, học sinh cần chú ý đến các lỗi chính tả, lỗi câu, lỗi dùng từ... và chữ viết phải rõ ràng, dễ đọc.
* Cô Trần Thị Hoa, Tổ trưởng Tổ Lịch sử Trường THPT Ngô Quyền:
Trong các môn thi tốt nghiệp, môn Sử có đặc thù khác với các môn học khác. Bởi lẽ ở môn Sử, các sự kiện, thời gian khá nhiều nên rất dễ gây nhầm lẫn. Để làm tốt bài thi, học sinh cần học thuộc, hiểu bài và nắm chắc các sự kiện lịch sử. Cách học dễ nhớ, dễ thuộc là các em phân theo từng chương, từng giai đoạn lịch sử, từng bài, mốc thời gian theo sách giáo khoa. Trên cơ sở đó, nắm được trọng tâm của từng vấn đề. Học sinh cần tránh việc học lan man, học tủ, học vẹt.
Đề thi môn Sử thường có hai phần gồm: phần lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam. Trước khi làm bài, các em cần đọc thật kỹ đề, ghi sự kiện, vấn đề, mốc thời gian mà đề yêu cầu ra giấy nháp. Tiếp đó, lập dàn bài trong vài phút rồi làm bài. Học thuộc câu nào làm trước câu đó. Thường thì đối với kỳ thi tốt nghiệp THPT, yêu cầu của đề thi không cao như kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng. Bởi vậy, đề thi hỏi vấn đề gì thì các em trả lời ngay vấn đề đó, không nên trả lời lung tung sẽ làm mất thời gian làm bài cho những câu hỏi khác.
NGỌC ĐOAN
.
.
KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2010
Để đạt kết quả cao
Thứ Sáu, 09/04/2010, 09:11 [GMT+7]
.
.
;
.
.
Các tin khác
- Thứ trưởng Phạm Vũ Luận điều hành Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Bạo lực học đường: S.O.S!
- Khen thưởng hai sinh viên dũng cảm bắt cướp
- 180 triệu USD đầu tư trường đại học quốc tế công lập đầu tiên
- Vòng loại cuộc thi sáng tạo Robot miền Trung-Tây Nguyên
- Đào tạo thạc sĩ chuyên ngành Hệ thống thông tin và truyền thông
.
.
.
.
.