Đại hội XI có chủ trương rất đúng là phải đổi mới căn bản và toàn diện GD-ĐT. Theo tinh thần đó, có rất nhiều vấn đề cần bàn. Ở đây, xin nêu một ý kiến về việc chuyển nền giáo dục từ chủ yếu là truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực.
Giờ học của học sinh Trường THCS Nguyễn Khuyến, Đà Nẵng. Ảnh: NGỌC ĐOAN |
Sứ mệnh của giáo dục là phát triển toàn diện con người. Trong đó, quan trọng nhất là phẩm chất và năng lực, cũng có thể gọi chung là nhân cách như nhiều nhà giáo dục học vẫn thường gọi. Trong bài viết này, từ năng lực được dùng theo nghĩa là năng lực NGƯỜI, bao gồm cả năng lực lẫn phẩm chất; nói cách khác là nhân cách, nói như K.Marx là năng lực - bản chất người (ông ghép từ năng lực với từ bản chất để thành một khái niệm mới là năng lực - bản chất người).
Có 2 câu hỏi đặt ra: Vì sao phải chuyển như vậy? Và bằng cách nào?
Truyền thụ kiến thức: không còn phù hợp!
Ngày nay, nhân loại đã bước vào kỷ nguyên thông tin. Hằng ngày, con người được tiếp nhận lượng thông tin rất lớn, từ nhiều kênh, nhiều chiều. Thông tin “va chạm” nhau, tác động và hỗ trợ lẫn nhau, liên tục sản sinh ra các thông tin mới, theo cấp số nhân, kích thích tư duy con người, làm nảy sinh tri thức mới, kiến thức mới. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, ngày nay, trong khoảng 3 năm, kiến thức nhân loại tăng lên gấp đôi.
Lượng kiến thức khổng lồ như vậy mà thầy truyền thụ, trò tiếp thu thì làm sao cho hết, làm sao cho kịp, chất chứa vào đâu. Mà người thầy cũng không cập nhật kịp để truyền thụ, và sau 3 năm đã có nhiều kiến thức mới hơn thay thế rồi (có khi người học chưa kịp ra trường).
Mặt khác, kiến thức đã có để truyền thụ thường gắn với kinh nghiệm đã qua, trong khi cần chuẩn bị cho người học sống và làm việc trong thời gian tới. Với truyền thụ kiến thức, người học thường bị giới hạn bởi người thầy, trong khi cần chuẩn bị cho học sinh vượt thầy, vượt sách, để có thể sống và làm việc trong một thế giới biến đổi rất nhanh. Vì những lẽ ấy, việc giáo dục chủ yếu là truyền thụ kiến thức không còn phù hợp nữa mà thay vào đó là việc phát triển năng lực.
Học gắn với hành
Để có năng lực, đương nhiên vẫn cần có kiến thức, nhưng có kiến thức mới là nửa đường, từ kiến thức phải biến thành năng lực mới là mục tiêu cuối cùng cần hướng đến. Có một ví dụ khập khiễng: kiến thức ví như “vật liệu xây dựng”, còn năng lực là khả năng xây được ngôi nhà. Có nhiều vật liệu mà không biết xây nhà thì cũng chưa có ích lợi gì nhiều. Có người khá nhiều kiến thức sách vở, nhưng lại không có năng lực để giải quyết các vấn đề liên quan. Vì vậy, từ lâu các nhà giáo dục học đã phải nêu phương châm học gắn với hành. Do biết xây nhà mà người ta biết tìm loại vật liệu gì dùng cho công việc ấy tốt nhất, thiết thực nhất, không thừa không thiếu, hiệu quả hơn so với việc tiếp nhận thụ động các vật liệu do người khác đưa tới, bắt buộc phải nhận.
Chương trình giáo dục là công cụ sư phạm để người thầy sử dụng tác động vào học sinh. Chương trình giáo dục của chúng ta lâu nay chủ yếu là tiếp cận nội dung, đổi mới cần chuyển mạnh theo hướng tiếp cận mục tiêu phát triển năng lực. Thực hiện một chương trình nhiều bộ sách giáo khoa, để thầy và trò được chọn bộ sách tốt nhất.
Công việc của người thầy từ trước đến nay chủ yếu là truyền thụ kiến thức, mà phần lớn là áp đặt một chiều. Với xu hướng đổi mới ngày nay, thầy không phải là người dạy áp đặt, mà là người giúp học sinh biết cách học, cách tiếp cận và giải quyết vấn đề, biết tự tìm kiến thức và phân tích, tổng hợp, thầy dạy chuyển sang “thầy học”, tức là làm thầy về việc học. Người thầy là người bạn lớn, bạn đồng hành với học sinh trong quá trình đi tìm chân lý. Công việc truyền thụ kiến thức mà trước đây chủ yếu từng người thầy phải làm thì nay sẽ tiến đến phần lớn nhờ công nghệ thông tin (CNTT) thực hiện. Tự CNTT không thay thế được người thầy (về thiết kế nội dung thông tin, truyền cảm và nêu tấm gương nhân cách); nhưng một người thầy giỏi cộng với CNTT sẽ thay thế được rất nhiều người thầy khác.
Đến nay, trong giáo dục ĐH của chúng ta vẫn còn không ít tình trạng thầy đọc trò chép. Công việc dạy và học trong đổi mới sẽ là “giảng ít, học nhiều”, chuyển từ dạy - học sang tự học là chính, chuyển một phần đáng kể từ giảng dạy sang tổ chức các hoạt động học và hướng dẫn cho học sinh, tất nhiên là mức độ khác nhau phù hợp với từng cấp học. Năng lực bao giờ cũng là sự “tự nó”, phát triển là tự phát triển, không thể áp đặt, cấp phát, vay mượn mà người thầy hướng dẫn phương pháp tiếp cận và tác động vào các yếu tố bên trong ở người học, kích thích để nó tự phát triển. Đó là công việc của nhà giáo dục học, nhà khoa học, người nghệ sĩ. Vinh quang và khó khăn!
Như vậy, trong đổi mới, công việc của người thầy sẽ khó hơn, yêu cầu lớn hơn, và từ đó cần cải cách sư phạm, chuẩn bị cho người thầy cách dạy phát triển năng lực học sinh thay vì truyền thụ kiến thức như lâu nay.
Phải thay đổi căn bản cách thi
Nền giáo dục của chúng ta từ xưa đã rất nặng ứng thí và bằng cấp; học để trả thi, để ứng phó với thi cử, để có tấm bằng làm công cụ tiến thân, trước tiên là làm quan. Đến nay cơ bản vẫn vậy, lại còn mặt trái của cơ chế thị trường, không ít trường hợp mua bằng bán điểm, học hộ, thi giúp. Đổi mới giáo dục phải thay đổi căn bản cách thi. Thi không phải là kiểm tra kiến thức, mà là kiểm tra năng lực (năng lực tiếp cận vấn đề, phân tích, tổng hợp và giải quyết vấn đề). Đề bài thi sẽ khác, cách đánh giá sẽ khác. Thi thế nào thì học sinh sẽ học thế ấy, thầy sẽ dạy thế ấy. Vì vậy, có những ý kiến đề xuất chọn việc đổi mới cách thi cử, đánh giá để làm đột phá, tác động đến việc dạy và học. Thi để kiểm tra kiến thức thì học sinh phải nhớ kiến thức, kể cả nhớ máy móc, thầy sẽ dạy theo cách truyền thụ kiến thức như cũ, đi thi không được mang theo tài liệu, phải tốn công sức để học thuộc lòng, để nhớ công thức. Thi để kiểm tra năng lực thì phải dạy theo mục tiêu phát triển năng lực, học sinh đi thi không phải nhớ máy móc các công thức và có thể mang theo tài liệu nếu muốn.
Giáo dục của chúng ta bắt học trò phải thuộc, phải ghi nhớ máy móc quá nhiều công thức, mà các công thức ấy sau này khi làm việc cả đời hầu hết mọi người không dùng đến. Vậy bắt học sinh nhớ làm gì cho tốn công sức, cần dành năng lượng ấy để tập trung cho tư duy sáng tạo. Việc học toán, đương nhiên là cần học, cần hiểu các công thức ấy để hình thành logic trong tư duy, quan trọng là hiểu và biết vận dụng, không nhất thiết bắt học sinh phải nhớ. Học lịch sử, quan trọng là hiểu bản chất của lịch sử, những vấn đề có tính quy luật, chi phối các sự kiện, và hình thành nhân cách, còn bắt học sinh phải thuộc, phải nhớ ngày tháng, sự kiện quá nhiều làm cho môn học đáng lý ra rất hấp dẫn lại trở thành nặng nề, khô khan. Học văn lại chấm điểm theo ba-rem, phải đúng 4-5 ý như thầy điểm mới cao là chưa phù hợp đặc điểm của môn này. Học sinh có thể có phát hiện mới, có thêm ý mới, hoặc chỉ nói một vài ý thôi nhưng rất sâu, có cảm xúc thật sự thì vẫn tốt.
Ngày nay, CNTT đã giúp con người rất nhiều ở bộ nhớ, chỉ cần nhắp con trỏ máy tính vào vị trí quy định thì sẽ được cung cấp rất nhiều kiến thức. Thi để kiểm tra kiến thức thì đạt điểm cao nhất khi nói giống y như thầy. Thi để kiểm tra năng lực thì nói đúng như thầy mới đạt điểm trung bình hoặc trên trung bình, còn điểm cao sẽ dành cho những học sinh có tư duy độc lập sáng tạo, có phát hiện mới, ý kiến mới, có thể khác thầy mà có lý lẽ khoa học. Không phải học để thi mà là thi để học. Cần làm cho việc thi cử trở nên nhẹ nhàng và thực chất hơn, không nặng nề tốn kém như hiện nay. Do có thi mà thúc đẩy học sinh phải học. Thông qua kết quả thi, kiểm tra để thầy giáo biết học sinh mạnh yếu mặt nào mà điều chỉnh việc dạy - hướng dẫn việc học. Tất nhiên không chỉ có thi, mà thi, kiểm tra gắn với đánh giá thường xuyên quá trình học tập, kiểm định chương trình giáo dục và kiểm định cơ sở đào tạo, để từ đó mà điều chỉnh công tác đào tạo và quản lý.
Cần làm thực chất kỳ thi tốt nghiệp phổ thông
Xin có vài ý kiến về 2 kỳ thi quốc gia tốt nghiệp phổ thông và tuyển sinh ĐH. Vừa qua, có nhiều ý kiến khác nhau về việc này. Theo tôi, không nên tiến hành 2 cuộc thi quốc gia gần nhau và huy động cả nước, tốn kém như hiện nay, trong khi nội dung chương trình học giống nhau, phương pháp thi cũng giống nhau. Chỉ cần một cuộc ở giai đoạn này là đủ. Không phải bỏ cuộc thi tốt nghiệp phổ thông, mà ngược lại cần làm thực chất cuộc thi này, mặc dù có thể tổ chức nhẹ nhàng hơn, thi vài lần trong năm, riêng từng môn theo tín chỉ. Việc này xuất phát từ quan điểm quản lý đầu ra. Cũng cuộc thi tốt nghiệp phổ thông ấy, với cách làm nghiêm túc hơn, với khung điểm rộng hơn, phân hóa rõ hơn, để dùng kết quả ấy cho sơ tuyển ĐH. Tuyển sinh ĐH không phải thi quốc gia như hiện nay. Trên cơ sở kết quả tốt nghiệp phổ thông mà các trường CĐ, ĐH có phương thức tuyển chọn phù hợp với yêu cầu nghề nghiệp và đầu ra của cơ sở đào tạo.
Để có những con người sáng tạo, phải chuẩn bị cho người học sự tự tin, tính tự chủ, tinh thần tự học tập suốt đời, chuyển từ cách học ghi nhớ lời thầy, nói và viết theo thầy, sang tư duy độc lập và sáng tạo; và đặc biệt là cách giảng dạy dân chủ, bình đẳng, không áp đặt, khơi dậy và khuyến khích tính tích cực, tôn trọng tự do tư tưởng và tư duy độc lập, tôn trọng ý kiến riêng của người học. Sáng tạo thì bao giờ cũng có cái riêng của người học, không giống thầy, không y như thầy, khác thầy, cá biệt có lúc trái ngược với thầy.
Xã hội cần những con người trung thực, nhân văn, tự do sáng tạo. Đó là những con người được phát triển đầy đủ năng lực NGƯỜI. Muốn vậy, cần phải có một nền giáo dục mở, học tập suốt đời, gắn với xã hội học tập; một nền giáo dục dân chủ, thực học, thực nghiệp (không phải là nền giáo dục ứng thí), liên thông, hội nhập, phân tầng và phân luồng hợp lý; có cơ chế quản lý khoa học, hiệu quả. Trong nền giáo dục ấy, cần xử lý tốt mối quan hệ giữa giáo dục và thị trường, giữa công lập và ngoài công lập, giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh sử dụng CNTT để đổi mới căn bản phương thức dạy và học. Mỗi một vấn đề trong số ấy có rất nhiều nội dung cần bàn.
Để giải phóng và phát triển tối đa năng lực của người học, đòi hỏi phải tôn trọng và phát huy “con người cá nhân”, cái tự do như K.Marx nói, cái bản lĩnh riêng, nhân cách chính mình, năng lực riêng có, chứ không phải là cá nhân chủ nghĩa. Tất nhiên, không để lệch từ cực này sang cực khác, mà cần chú ý đồng thời song song cả hai mặt của “con người cá nhân” và “con người xã hội”, con người của “tự do” và con người của “tất yếu”. Để phát triển tốt năng lực học sinh, nhà trường và thầy giáo có trách nhiệm phát hiện thế mạnh riêng có ở mỗi người để hướng dẫn và kích thích sự phát triển các năng lực ấy. Thế mạnh riêng ở học sinh không giống nhau, do cấu tạo tự nhiên các vùng vỏ não khác nhau, em này có thể phát triển tốt ở hướng này mà không phát triển tốt ở hướng khác, em kia thì ngược lại. Có những nhà giáo dục cho rằng, nói chung không có học sinh kém, chỉ có kém ở hướng này nhưng sẽ giỏi ở hướng khác; nếu nhà trường và thầy cô giáo phát hiện đúng, hướng dẫn và tác động để học sinh phát triển đúng thế mạnh riêng của mình thì sẽ có người giỏi ở lĩnh vực ấy. Ai cũng phát triển tốt theo thế mạnh riêng thì chúng ta sẽ có một cộng đồng những người giỏi, phong phú trên tất cả các lĩnh vực khác nhau, từ đó mà nâng cao năng lực cộng đồng, chứ không thể phát triển giống nhau đồng đều các mặt ở tất cả mọi người. |
VŨ NGỌC HOÀNG
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương