.

Nhớ Quỳnh

.

1- Tôi chỉ giữ được một bức ảnh chụp chung với Quỳnh hôm một số nhà thơ Việt Nam tiếp Evtusenko, khi ông đến Việt Nam. Ảnh đã cũ và khá nhỏ nhưng vẫn còn có thể nhận rõ từng người. Evtusenko rất cao lớn, đội mũ lưỡi trai màu trắng, cười hóm hỉnh.

Xuân Quỳnh - người yêu Lưu Quang Vũ “...cả khi chết đi rồi...”

Rồi Tế Hanh, Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Hổ, Thúy Toàn, Thái Bá Tân... Quỳnh mặc quần jean, áo thun màu đen rất đúng mode và cười rất tươi. Hình như lúc nào chụp ảnh Quỳnh cũng cười, cười rất tươi, hai lúm đồng tiền hiện rõ trên khuôn mặt sắc sảo, mặn mà.

Bữa đó, giữa chừng câu chuyện, Evtusenko hỏi chúng tôi có biết Marina Xvetaeva không. Người bảo có, kẻ bảo không. Evtusenko nói, đại ý: Đó là một nhà thơ lớn và một phụ nữ tuyệt vời. Đôi môi của bà có thể sánh với kim cương. Quỳnh quay sang bảo tôi: “Nếu là kim cương thì đàn ông sẽ bán đi để lấy tiền tiêu xài”. Tôi nói to lời nhận xét của Quỳnh, mọi người cười phá lên.

Riêng Evtusenko thì phải đợi anh Thúy Toàn dịch xong mới được cười vì sự sắc sảo của Quỳnh. Quỳnh lại thì thầm: “Nhìn cậu kìa, cậu đeo dây chuyền, đeo nhẫn mặt đá như tài tử xi-nê vậy. Cậu lại sắp lấy vợ nữa đấy”. Cậu ở đây là Evtusenko. Ai Quỳnh cũng gọi là cậu, cậu H.C, cậu T.H, cậu Th, cậu LD, cậu TC... Tôi cũng không hiểu vì sao, tiếng cậu của Quỳnh khi đặt trước tên những nhân vật quan trọng, bao giờ cũng khiến tôi buồn cười. Rồi Quỳnh lại thì thầm: “Hôm nay mày có mua dầu không, mua dầu ở Yết Kiêu vắng hơn”.

Evtusenko vừa bước lên ô-tô là Quỳnh đã quày quả dắt chiếc xe đạp mi-ni có buộc sẵn can dầu, ra khỏi 65 Nguyễn Du. Có khi Quỳnh còn đem cả giỏ quần áo đến cái vòi nước bên hông trái của cơ quan để giặt. Nhà Quỳnh ở trên cao, luôn thiếu nước. Thế là diễn ra cái cảnh nhà văn này, nhà thơ nọ xúm quanh cái máy nước ấy để trao đổi công việc. Quỳnh vừa vò quần áo vừa lắng nghe, đối đáp. Và cũng như mọi nơi nào có Quỳnh, câu chuyện chỗ máy nước rất sôi nổi, rôm rả.

2- Tôi quen Quỳnh từ mùa hè năm 1969. Dịp đó, từ chỗ sơ tán của Viện Văn học, tôi đã đọc và viết bài phê bình đầu tay về tập “Hoa dọc chiến hào” của Quỳnh. Tôi gửi bài cho Quỳnh, Quỳnh viết thư trả lời, mừng vì có người hiểu thơ mình. Tiếc rằng tôi không còn bức thư.

Tôi nhớ rõ buổi tối đầu tiên đến 96 Phố Huế thăm Quỳnh. Nhà Quỳnh chật lắm, tôi lại đang có mang, Quỳnh kéo tay rủ tôi lên sân thượng cho mát. Quỳnh lúc này đã khá nổi tiếng nhưng Quỳnh không điệu hạnh mà rất ân cần, vồn vã. Biết tôi hồi đi học có làm thơ, Quỳnh dặn tôi viết rồi đưa cho Quỳnh. Sau này tôi viết nhiều hơn và có thơ in ở Báo Văn Nghệ, nơi Quỳnh làm việc. Rồi Quỳnh về Nhà Xuất bản Tác Phẩm Mới cùng với tôi và Lê Minh Khuê.
 
Tôi ở tổ thơ, Quỳnh ở tổ văn học thiếu nhi, Khuê ở tổ văn xuôi nhưng chúng tôi hay ngồi tại căn phòng của tôi. Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân, trước khi đến Phòng Lý luận-Phê bình, cũng tạt vào đây hàn huyên. Đây cũng là căn phòng đón rất nhiều các nhà văn, nhà thơ. Một phần vì nó ở ngay đầu cầu thang. Phần khác, vì ở đây, các chuyện thời sự, đặc biệt là thời sự văn nghệ, bao giờ cũng mới mẻ, nồng nhiệt, thẳng thắn. Ba chúng tôi khá thân nhau, chia sẻ với nhau nhiều điều trong công việc, trong đời sống. Bữa nào có rủng rỉnh một chút là rủ nhau đi ăn bánh rán, ăn chè, sang nữa thì ăn phở. Lê Minh Khuê có một câu nói vui rất nổi tiếng vào lúc này: Phở là món ăn ngon nhất trên đời.

Có lần, chúng tôi đang ngồi tán gẫu thì anh Nguyễn Minh Châu đến. Anh mặc quần áo bộ đội, tay xách túi vải. Vừa bước vào, anh đã hỏi: “Các cô có chuyện gì mà vui thế. Còn tôi thì nhiều nỗi sợ quá”. Lúc này anh Châu cho in một loạt truyện ngắn mới và đang bị phê bình là có vấn đề tư tưởng, là phi xã hội chủ nghĩa. Thấy anh Châu có vẻ buồn, tôi và Khuê chẳng dám nói gì. Quỳnh thì gọi mấy người phê bình anh Châu với đủ các thứ biệt danh. Người thì “chữ vón trong đầu”, người thì “mồm như ống nhổ thầy đề”, kẻ lại giống bươm bướm ma. Anh Châu phì cười. Thế là quên cả bực dọc. Anh lững thững ra về, xuống cầu thang, ngang qua cửa sổ, còn giơ tay chào, nét mặt đã tươi tỉnh.

Quỳnh thuộc nhiều ca dao, tục ngữ, ví von sắc sảo. Ở đâu có Quỳnh là ở đó có tiếng cười. Quỳnh nhận xét chân xác, ngôn ngữ tinh diệu, chỉ một câu nói có thể làm rõ tính cách một con người. Chỉ một người quá cẩn thận, Quỳnh bảo: Cậu ta rửa tay ở máy nước này rồi tráng lại ở máy nước khác. Thấy một vị lãnh đạo văn nghệ cứ nhắc đi nhắc lại những điều đã cũ, Quỳnh bảo: Y như cái máy hát hỏng ấy, cứ bèo dạt, bèo dạt mãi.

Những điều tưởng khó khăn, phức tạp, nghiêm trọng khi được Quỳnh “hóa giải” lại thành ra giản dị, sáng sủa. Và bao giờ cũng mang khí vị hài hước. Trong lúc người ta tổ chức hội thảo, tổ chức tranh luận: Làm thế nào để đổi mới thơ, thì Quỳnh nói tỉnh khô: Đổi mới thơ là làm thơ cho hay. Có người viết không được nhưng lại cứ đòi hỏi điều kiện này khác, Quỳnh bảo, chẳng hiểu cậu ấy sử dụng tự do vào việc gì. Cứ loanh quanh như chó nằm chổi ấy.
 
Rồi Quỳnh nghiêm trang: Phải tự tìm lấy tự do chứ đi xin ai. Có lần cả bọn đang túm tụm bàn chuyện về một nhà văn nọ, có vị lãnh đạo ghé lại bảo: Các cô đừng bàn tán nhiều, mất uy tín của anh ấy. Trong lúc cả bọn chưa biết trả lời ra sao thì Quỳnh đáp: Có đâu mà mất ạ. Khi mọi người bàn về nguyên cớ khiến người ta làm thơ, Quỳnh bảo: Không đui què mẻ sứt thì làm thơ làm gì. Cái khả năng gọi sự vật bằng tên cúng cơm ấy tôi chỉ gặp ở Quỳnh.

Gia đình Lưu Quang Vũ năm 1978.

Người ta bảo Quỳnh là hậu duệ của bà Xuân Hương chắc là vì vậy. Mọi người dễ nghĩ Quỳnh là người ruột để ngoài da, chuyện gì cũng kể cho cả làng cả xã cùng nghe. Từ chuyện mua được vài mét vải, nửa ký đường ngoài tiêu chuẩn đến việc mua phải tủ lạnh dỏm, mãi mà không đông đá. Quỳnh gọi nó là tủ mát. Rồi chuyện vừa mua phải chiếc Mobilét cá ươn, nó ươn thật. Vũ cưỡi xe ngoài phố, gặp bạn đi xe đạp, vẫy tay chào đi trước. Nửa đường xe hư, sửa mãi, đến nơi thì mọi người đã họp gần xong.

Rồi chuyện Vũ đập muỗi. Quỳnh bảo thấy muỗi bay, bảo Vũ đập, Vũ đập nhẹ quá, muỗi bay mất. Quỳnh trêu, đập muỗi mà như múa vậy. Hôm sau thấy ruồi, Vũ vội đập thật mạnh, be bét cả 2 tay. Rồi chuyện nhà Quỳnh trồng hành trong chậu. Lúc hành nẩy lá, Vũ kêu lên, hành kìa. Lũ trẻ con xúm lại, cũng kêu, hành kìa. Ông Đoàn Dũng ở bên Trần Nhân Tông nhìn qua, thấy hành cũng kêu lên, hành kìa. Quỳnh cười, nhà tao giồng hành để kêu.

Quỳnh nói suốt ngày, từ chuyện nọ đến chuyện kia, từ chuyện nghiêm túc đến chuyện tầm phào. Đi họp, ngồi bên cạnh Quỳnh, chẳng còn tâm trí đâu mà nghe người khác nói. Tôi đi họp về, nhà tôi hỏi, có gì hay không. Tôi đáp, hôm nay ngồi cạnh Quỳnh, nghĩa là chẳng biết họp cái gì. Nếu có lúc nào than phiền thì Quỳnh bảo: “Tao nói hay hơn”. Có lần tôi đùa Quỳnh: “Mày mà bị địch bắt, chỉ cần nó cấm nói là có bao nhiêu bí mật sẽ khai tuốt tuồn tuột”. Quỳnh cười, nheo nheo mắt: “Lấy đếch đâu bí mật mà khai”.

Nhưng tôi biết Quỳnh có những nỗi khổ không bao giờ nói ra, những giọt nước mắt được giấu kín. Nhưng tôi biết Quỳnh là người rất e thẹn, rất ngại đám đông. Có lần, một công trường nọ mời Quỳnh đến nói chuyện, đọc thơ. Từ chối mãi không được, đành nhận lời. Lúc về, Quỳnh bảo với tôi: “Thế quái nào mà nói hết cả ý, khản cả giọng mà nhìn đồng hồ mới chỉ ba mươi phút”. Quỳnh có mối bất hòa với Xuân Diệu, khi Xuân Diệu mất, Quỳnh đến 51 Trần Hưng Đạo nhưng chỉ đứng quanh quẩn chỗ mấy gốc cây ngoài vỉa hè, trông rất bối rối. Đọc thơ, đọc tham luận trước đám đông, giọng Quỳnh run run, nghẹn ngào như khóc.

3- Quỳnh thích hoa cúc. Thơ Quỳnh rất nhiều hoa cúc. Tôi còn nhớ như in hình ảnh Quỳnh một chiều thu trên đường Trần Bình Trọng, quãng gần giáp Trần Hưng Đạo. Vũ chở Quỳnh trên chiếc xe đạp đã cũ, nét mặt Vũ hiền hòa. Quỳnh ngồi phía sau, tay ôm một bó cúc đại đóa lớn, vẻ rất tươi vui.

Quỳnh thích màu vàng. Mùa hè 1973, khi tôi sinh cháu thứ hai, Quỳnh đến thăm. Quỳnh mặc một chiếc áo phin nõn màu vàng nhạt, Quỳnh khoe mới mua được. Quỳnh đem cho tôi một chục ổi chín thơm phức, ngượng nghịu bảo: “Thay vì mang trứng thì tao lại mang ổi”. Tôi nhớ bấy giờ Quỳnh nghèo lắm. Quỳnh ở chơi rất lâu, nói nhiều chuyện. Quỳnh đang rất buồn vì một chuyện tình cảm đổ vỡ. Quỳnh có đôi mắt rất đẹp và buồn. Hôm đó, tôi nhìn thấy ngấn nước mắt trong đôi mắt đen tuyệt đẹp ấy.

Mùa đông năm đó, Quỳnh lại khoe một chiếc áo len mới cũng màu vàng nhạt. Chiếc áo rất vừa vặn. Chính cái màu vàng ấy làm tôn màu da nâu của Quỳnh. Có hôm Quỳnh bảo tôi: “Tao không có tiền, mày cũng không có tiền. Tao đi vay, mày cũng đi vay. Vậy mà trông mày cứ đủng đà, đủng đỉnh, phát ghét”.

Quả là Quỳnh lúc nào cũng vội vàng, tất tưởi. Có hôm, hai đứa đang ngồi chơi ở ghế đá ngoài sân nhà 51 Trần Hưng Đạo, trông thấy một vị lãnh đạo đi qua, Quỳnh bật dậy chạy theo. Lát sau, Quỳnh quay lại, cười phân bua: Xin tăng lương cho ông Vũ. Ở các cuộc họp, Quỳnh tranh thủ gặp người này, người nọ để trao đổi bài vở, trao đổi công việc. Có hôm, đang đi giữa phố, chợt nghe Quỳnh gọi ơi ới. Tôi dừng lại, thấy Quỳnh dắt xe băng qua phố, nói không kịp thở: “Đang có dịch đấy, đừng cho trẻ con ăn quả xanh nhé”. Rồi vội vã lên xe đạp đi.

Có lần, nhà xuất bản tổ chức đi nghỉ ở Bãi Cháy. Quỳnh đem theo ba đứa, tôi hai đứa, lại thêm mấy cháu con cô Thịnh, bác Khánh nữa, toàn con trai. Lúc bọn trẻ đi chơi, đi tắm, tôi và Quỳnh dạo chơi trên bờ, đợi con. Chúng kéo về, đói ngấu. Suất ăn có hạn, Quỳnh bê cơm, bê canh chia đều cho bọn nhỏ. Còn lại một ít, Quỳnh bảo: “Chỗ này của tao với bác Nhi”. Câu nói cứ lặp đi lặp lại mãi, mỗi khi đến bữa ăn, bọn trẻ đợi Quỳnh chia xong phần, đồng thanh kêu lên: “Chỗ này của tao với bác Nhi”. Hai bà mẹ bữa nào cũng đói.

Quỳnh thương con, thương cả ba đứa. Nhưng có lẽ Quỳnh ái ngại cho Tuấn Anh hơn cả. Nhà Quỳnh rất chật. Thế nhưng khi Vũ đã có nhiều vở diễn, tôi hỏi sao không tìm chỗ khác ở, Quỳnh bảo, ở quanh quẩn để còn chăm cho Tuấn Anh. (Tuấn Anh ở với bố Tuấn trong một căn phòng khác tại 96 Phố Huế). Có hôm tôi gặp Quỳnh đến cơ quan sớm, Quỳnh bảo có hẹn với bà cụ của anh Tuấn. Tôi hỏi có việc gì, Quỳnh bảo, bàn với cụ tìm cho anh Tuấn một đám tử tế để anh ấy vui mà Tuấn Anh cũng được nhờ.

Dạo chúng tôi đi nghỉ ở Bãi Cháy, Tuấn Anh đã lớn nhưng Quỳnh vẫn chăm nom từng ly từng tý. Tuấn Anh bị trầy chân, đem đường rắc lên vết đau theo chỉ dẫn của một tài liệu nào đó. Quỳnh thấy vậy hoảng quá, quýnh quáng lau rửa rồi bôi thuốc cho con. Hôm cơ quan về Hà Nội, Tuấn Anh vẫn còn đau chân. Đoàn chèo Quảng Ninh mời Vũ ở lại làm việc. Quỳnh và Mí (Quỳnh Thơ) cùng ở lại. Quỳnh đứng tần ngần giữa đường nhìn theo chiếc xe cơ quan về Hà Nội. Quỳnh lo Tuấn Anh phải về mà không có mẹ theo cùng.

Đối với Kit (Minh Vũ), Quỳnh cũng có sự chăm sóc đặc biệt. Kit gọi Quỳnh là má Quỳnh (chắc là để phân biệt với mẹ Uyên). Hồi Kit vào trường Điện ảnh, Quỳnh mừng lắm. Quỳnh kể, sáng phải dậy từ 4 giờ sáng để lo cho Kit ăn sáng, kịp vào Cầu Giấy học.

Quỳnh mua áo quần cho ba đứa, đan áo cho ba đứa, làm thơ, viết truyện cho ba đứa. Vì tình yêu thương của mẹ Quỳnh mà ba đứa trẻ rất thân thiện với nhau. Quỳnh là người mẹ tuyệt vời mà tôi từng biết.

Tôi vừa vào Sài Gòn được một năm thì Quỳnh mất. Cuối tháng 8-1988, anh Hoài Vũ gọi điện thoại báo tin dữ, tôi không tin. Tôi cãi, sắp vào năm học rồi, Quỳnh đưa Mí đi Hải Phòng làm gì. Mãi khi Hồng Ngát từ Hà Nội vào, đến nhà báo, tôi mới tin sự thật đau đớn đó.

Lần cuối tôi gặp Quỳnh là tháng 2-1988. Tôi từ Sài Gòn ra Hà Nội chuẩn bị đi dự một khóa ngắn hạn ở Học viện Gorki. Quỳnh đã đi khóa trước đó. Quỳnh kể chuyện, dặn dò tôi mang thứ này thứ khác. Hôm chúng tôi đi, Quỳnh theo xe ra tận Nội Bài để tiễn. Quỳnh đưa cho tôi một chục đũa tre, bảo đem theo mà ăn cơm. Tôi có cảm giác Quỳnh đang buồn nhưng rồi cũng không có thời gian trò chuyện.

Sau khi Quỳnh mất, có lần tôi nằm mơ gặp Quỳnh. Quỳnh vào một căn nhà, tôi vào theo. Quỳnh bước qua một cánh cửa rồi khuất hẳn. Nhớ Quỳnh, tôi đã viết bài “Chiêm bao gặp Xuân Quỳnh”.
  
10-2003

Ý NHI

;
.
.
.
.
.