Khi ông qua đời, tài sản quý báu nhất để lại cho con cháu là khí phách tuyệt vời của một nho sĩ cùng với thanh gươm mà ông mang theo khi vào tự vẫn ở Võ Miếu. Người chắt nội của ông đã mang thanh gươm báu này đi cướp chính quyền ở Hội An trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Quân Pháp tấn công thành Hà Nội. (Ảnh tư liệu) |
24 tuổi ông đỗ phó bảng. Nhưng 19 tuổi, ông đã cùng anh đỗ cử nhân tại trường thi Thừa Thiên. Vì bài thi của hai anh em có nhiều lý giải giống nhau nên đích thân vua Tự Đức phải cho phúc hạch ngay tại điện Cần Chánh và kết thúc bằng lời phê: “Văn hành công khí, quý đắc chân tài; huynh đệ đồng khoa, thành vi mỹ sự” (Hành văn là việc chung cốt để chọn nhân tài; anh em cùng đỗ một khoa đó là điều tốt đẹp).
Con đường khoa cử của ông khá suôn sẻ nhưng con đường hoạn lộ thì lại nhiều gập ghềnh, đã ba lần bị giáng chức vì vạ lây. Từ nhỏ anh em ông đã được hưởng nền giáo dục gia đình rất tốt. Chuyện kể rằng, khi làm quan ông có gửi về tặng mẹ một tấm áo lụa. Mẹ ông đã gửi trả lại kèm theo một chiếc roi dâu, hàm ý khuyên con phải thanh liêm, coi việc nước trên việc nhà. Đại Nam Chính Biên Liệt truyện đã chép ông là người “tính tình cương trực, thanh liêm, lâm sự quyết đoán, có phong độ của bậc đại thần”.
Năm 1880, Hoàng Diệu nhậm chức Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội, Ninh Bình) giữa lúc thực dân Pháp dã tâm muốn chiếm Bắc kỳ, còn triều đình Huế thì nhu nhược tiến thoái lưỡng nan. Đến Hà Nội, ông vỗ an dân chúng, tập trung bố phòng chống giặc; việc làm này được thân sĩ Hà Nội ủng hộ nhưng lại bị triều đình quở trách.
Ngày mồng 8 tháng 3 Nhâm Ngọ (25-4-1882) Henri Rivière gửi tối hậu thư buộc phải giao thành Hà Nội. Trước thái độ ngang ngược của giặc, ông cho người đi thương lượng nhưng lại chuẩn bị để quyết chiến. Không đợi trả lời, H. Rivière ra lệnh công phá thành. Ông chỉ huy quân sĩ chống trả đến phút cuối cùng. Tướng sĩ dưới trướng lớp bị thương vong, lớp bỏ trốn theo giặc, ông chạy vào Võ Miếu cùng với mười lính hầu, trong tay chỉ còn một thanh gươm. Ông viết biểu dâng về triều rồi lấy khăn buộc lên một cây táo thắt cổ tự vẫn để khỏi rơi vào tay giặc.
Nghe tin Hoàng Diệu tuẫn tiết, sĩ dân Hà Nội rất thương tiếc và ngày hôm sau đã đưa thi hài ông về mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học Hà Nội. Gần một tháng sau, khi đang làm cỏ lúa gieo trên cánh đồng làng, bà Hoàng Diệu mới nhận được tin chồng tuẫn tiết ở Hà Nội. Bà đã ngất xỉu trên bờ ruộng. Chồng làm quan đến Thượng thư, Tổng đốc đại thần, vợ lại không xênh xang lên xe xuống ngựa mà chỉ là một nông dân bình thường, thật là một điều hiếm thấy xưa nay.
Về sau, hài cốt của ông được đưa về an táng ở quê nhà, giữa cánh đồng lúa xanh ngát của quê mẹ. Hiện nay lăng mộ của ông đã nhiều lần được trùng tu đã trở thành di tích văn hóa lịch sử quốc gia. Ông chẳng để lại tài sản gì cho con cháu, ngoài phẩm chất, khí phách tuyệt vời của một nho sĩ và một thanh gươm báu. Tất cả đã được con cháu tộc Hoàng giữ như một thứ gia bảo “truyền tử lưu tôn” qua nhiều thế hệ. Năm 1945, người chắt nội của ông đã mang thanh gươm ấy đi cướp chính quyền ở Hội An trong Cách mạng Tháng Tám.
LÊ BÌNH TRỊ