Họa sĩ Mai Văn Hiến được cử đến Điện Biên Phủ, có mặt giữa lòng cuộc chiến đó. Đặc biệt, trong tranh Mai Văn Hiến, ông vẽ cảnh sinh hoạt của những người chiến sĩ vô danh, nhiều người trong số họ sau đó đã vĩnh viễn ra đi.
Chân dung Mai Văn Hiến (ảnh do Đình Đăng ký họa) và Bức tranh Gặp nhau (bột màu. 57 x 93cm) diễn tả anh bộ đội trên đường hành quân lên tiền tuyến, bất ngờ gặp cô nông dân đi dân công - người cùng quê - đi cùng một hướng. |
Họa sĩ Mai Văn Hiến (1923-2006) được sinh ra ở Đà Nẵng, nhưng nguyên quán tại Châu Thành, Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Năm 20 tuổi, ông ra Hà Nội và thi đỗ Trường CĐ Mỹ thuật Đông Dương (khóa 1943-1945).
Tháng 8-1945, Mai Văn Hiến tham gia cách mạng tại Hà Nộị, vẽ tranh cổ động, làm công tác tuyên truyền phục vụ cách mạng. Từ tháng 11-1945 đến tháng 3-1946, ông cùng 3 họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Huyến và Nguyễn Văn Khanh được cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng - lúc đó là Bộ trưởng Bộ Tài Chính - chọn giao nhiệm vụ vẽ những tờ giấy bạc đầu tiên cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mai Văn Hiến chính là tác giả thiết kế tờ giấy bạc 5 đồng.
Tháng 7-1947, Mai Văn Hiến được điều về Tổng Cục Chính trị quân đội với nhiệm vụ minh họa, trình bày Báo Vệ quốc quân (tiền thân của Báo Quân đội Nhân dân) cùng với họa sĩ Dương Bích Liên. Từ đó, ông trở thành người lính. Ông đã tham gia các chiến dịch Đông Bắc (1949), vùng Mỏ (1951), Giải phóng Tây Bắc (1952), Giải phóng Thượng Lào (1953), chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) và đã có rất nhiều ký họa về bộ đội, dân công bằng chì, bút sắt, trở thành những tư liệu quý giúp ông sáng tác những tác phẩm sơn dầu nổi tiếng sau này.
Tại chiến dịch Điện Biên Phủ, với tư cách phóng viên, họa sĩ Báo Quân đội Nhân dân bên cạnh Bộ Tư lệnh, ông có nhiều sáng tác phục vụ chiến sĩ và công tác địch vận.
Tháng 10-1954, hòa bình lập lại, ông được điều động về Hà Nội và công tác tại Phòng Văn nghệ Quân đội, rồi về Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ông tham gia trình bày, minh họa cho tạp chí này và người ta vẫn nhớ bút pháp riêng của ông với nét vẽ khỏe khoắn. Tại Đại hội thành lập Hội Mỹ thuật Việt Nam năm 1957, ông được bầu làm ủy viên BCH khóa I (1957-1983), tham gia Ban tổ chức các triển lãm mỹ thuật toàn quốc từ năm 1954 đến các triển lãm về sau.
Từ tháng 1-1966, họa sĩ Mai Văn Hiến được điều động về công tác tại Hội Mỹ thuật Việt Nam với cương vị ủy viên thường trực Ban thường vụ kiêm Trưởng ban đối ngoại. Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ông được giao thêm nhiệm vụ Tổng biên tập Tạp chí Mỹ thuật. Ông vẫn tiếp tục sáng tác tranh, làm minh họa báo, vẽ tranh biếm họa, viết bài cho các báo và tạp chí. Sau khi kết thúc nhiệm kỳ I (1957-1983), ông nghỉ hưu, nhưng vẫn vẽ liên tục, có tác phẩm ở tất cả các triển lãm lớn và được đánh giá cao.
Họa sĩ Mai Văn Hiến vốn có nhiều năm công tác trong quân đội và Hội Mỹ thuật Việt Nam. Các tác phẩm của ông chủ yếu là chất liệu sơn dầu về hình tượng Bác Hồ, bộ đội, về tình quân dân, đặc biệt là về những năm tháng kháng chiến chống Pháp với bút pháp hiện thực đơn giản và tinh tế, hóm hỉnh và đầy tinh thần lạc quan cách mạng, bình dị và sâu sắc, tạo được phong cách riêng, để lại nhiều ấn tượng đậm nét trong lòng công chúng như: Bướm dọc đường - 100 x 74cm (1984); Du kích Đông Bắc năm 1949 - 92 x 70cm (1989); Tiếng hát mùa chiến dịch - 180 x 120cm (1994); Anh bộ đội cụ Hồ với nhân dân Tây Bắc - sơn dầu - 140 x 110cm (1998).
Ông còn vẽ nhiều tác phẩm về sinh hoạt, chân dung, phong cảnh đất nước: Đèn khuya - 180 x 120cm (1991); Mẹ con - 60 x 50cm (1995); Chuẩn bị đi học – 61 x 45cm (1996); Văn Miếu – 60 x 80cm. Ông vẽ về những kỷ niệm khi công tác ở Hội: Bác Hồ xem Triển lãm Mỹ thuật – 60 x 80cm; Chân dung họa sĩ Hồng Hải...
Nhắc lại kỷ niệm những lần đầu tiếp cận họa sĩ Mai Văn Hiến, họa sĩ Trần Khánh Chương nói: “Ấn tượng của tôi đối với ông thật thú vị bởi sự bình dị, hóm hỉnh và như người ta vẫn nói, cái mắt và cái mũi như luôn cười. Sau này về công tác ở Hội Mỹ thuật Việt Nam, tôi có nhiều dịp được làm việc với ông và đến thăm ông, đó là một con người sống giản dị, yêu đời, yêu đồng nghiệp, làm việc hết mình trong các lĩnh vực hội họa và tranh biếm họa. Những ngày nằm trên giường bệnh, tôi vẫn thấy ông vẽ tranh, đó là các bức sơn dầu Văn Miếu, chân dung Bích...”.
Họa sĩ Lý Trực Dũng - người nổi tiếng về tranh biếm họa đã viết về Mai Văn Hiến: “Ông có vóc người to cao rất Tây, nhưng giọng nói lúc nào cũng nhỏ nhẹ, từ tốn. Không nghe ai kể Mai Văn Hiến cáu bao giờ, kể cả hai cô con gái của ông. Ông rành rọt kể về những họa sĩ vẽ tranh biếm họa thời kháng chiến như Phan Kế An (Phan Kích), Nguyễn Bích, Nguyễn Địch Dũng, Giang Tô, v.v... Còn về phần mình, ông chỉ lướt qua”. Phần lớn biếm họa chiến khu (từ năm 1947-1952) của Mai Văn Hiến đi vào cái rất đời thường, lột tả được những khía cạnh khá hài hước của người chiến sĩ vệ quốc, những người trước đó không lâu còn là người nông dân quê mùa chân chất, đến với kháng chiến bằng một vũ khí duy nhất là lòng yêu nước, căm thù giặc Pháp.
Còn giặc Pháp trong tranh biếm họa của Mai Văn Hiến cũng khá đặc sắc. Ông nhìn nhận họ cũng là con người, người lính đánh thuê. Họ có nỗi thống khổ, có số phận riêng, phải đi đánh thuê ở tận miền nhiệt đới xa xôi xứ người, phải chịu cái nóng ghê gớm, cái ẩm ướt, cái hoang dã rờn rợn của vùng nhiệt đới và hơn cả là sự căm ghét của người dân bản địa.
T.T.S