Giáo sư Trần Quang Hải và cha mình - Giáo sư Trần Văn Khê (phải) |
LTS: Sau gần một tháng vào viện, rạng sáng 24-6, GS Trần Văn Khê đã qua đời tuổi ở 94. Ông được coi là một tài năng lớn, một nhân cách lớn của âm nhạc dân tộc Việt Nam. Sự ra đi của ông để lại niềm tiếc thương vô bờ. Chúng tôi xin gửi tới độc giả bài viết của GS Trần Quang Hải - con trai của GS Trần Văn Khê viết về người cha kính yêu của mình.
Dù ai có muốn nói gì, nghĩ gì, đối với tôi không quan trọng. Tôi viết về cha tôi cũng như tôi đã viết về nhiều nhạc sĩ, ca sĩ khác. Tôi chỉ ghi những gì tôi biết về cha tôi với một cái nhìn khách quan tối đa. Nhân dịp Lễ Các Người Cha (Father's Day), tôi ghi lại một số hình ảnh của một người cha, một người thầy và một nhà nghiên cứu âm nhạc đã mang lại cho nền âm nhạc Việt Nam những hào quang rực rỡ chói sáng trên thế giới mà chưa có ai có thể làm được cho tới ngày hôm nay.
Thời thơ ấu
Đêm rằm tháng 6 âm lịch năm Tân Dậu (1921), chú bé Trần Văn Khê chào đời trong một gia đình bốn đời nhạc sĩ.
Cụ cố Trần Quang Thọ trước kia là nhạc công Triều đình Huế. Ông nội là Trần Quang Diệm, tục danh là ông Năm Diệm, biết đàn kìm, đàn tranh nhưng chuyên đàn tỳ bà theo phong cách Thần kinh. Cha là Trần Quang Triều, mà giới tài tử trong Nam thường gọi là ông Bảy Triều biết đờn nhiều cây, mà đặc biệt nhứt là đờn độc huyền (đàn bầu), và đờn kìm (đàn nguyệt).
Với đờn độc huyền, ông Bảy Triều đã bắt chước tiếng đào thán, tiếng ca nỉ non, nũng nịu của một người con gái, và ông đã chế ra cách lên dây đờn kìm mà ông gọi là "dây Tố Lan", thuộc hò nhì, lấy chữ xự làm hò mà dây Tồn cao bằng giọng hò trầm, thường dùng để đờn Văn Thiên Tường và Tứ đại oán, mà giới tài tử trong Nam đều biết và còn sử dụng.
Người cô thứ ba bà Trần Ngọc Viện, tục gọi là cô Ba Viện, trước dạy nữ công tại trường áo tím, năm 1926 vì để tang cụ Phan Châu Trinh nên bị sa thải, về Vĩnh Kim lập gánh hát Đồng Nữ Ban, toàn diễn viên con gái, con nông dân vùng Vĩnh Kim, Đông Hòa, Long Hưng, đàn tranh rất hay và đã truyền ngón cho Trần Văn Khê trong những bài Nam Xuân, Nam Ai.
Cụ cố ngoại là Nguyễn Tri Phương, đã làm đến chức Khâm sai Kinh Lược Nam Kỳ, tuyệt thực tử tiết khi Pháp chiếm thành Hà Nội lúc Cụ đang giữ chức Tuyên sát đồng sức Đại thần miền Bắc. Ngoại tổ là Nguyễn Tri Túc, lúc sinh thời đã nuôi rất nhiều nhạc sĩ danh tiếng vùng Cần Đước, Vĩnh Kim để cho hai người con là Nguyễn Tri Lạc và Nguyễn Tri Khương học các thứ đờn.
Ông Nguyễn Tri Khương, cậu thứ năm của Trần Văn Khê mà cũng là thầy dạy Trần Văn Khê đánh trống nhạc lễ và trống hát bội, đã sáng tác nhiều bản nhạc theo truyền thống như "Yến tước tranh ngôn", "Phong xuy trịch liễu" mà Trần Văn Khê đã ghi âm vào dĩa hát CD OCORA số C 56005. Mẹ là Nguyễn Thị Dành không được cha cho học nhạc, nhưng thường thích nghe hòa nhạc trong gia đình.
Trần Văn Khê và thân mẫu (1924) |
Trần Văn Khê chẳng những được may mắn sanh trong một gia đình mà hai bên nội ngoại đều là nhạc sĩ, mà lại được "thai giáo" một cách rất đặc biệt. Nhà phía bên nội ở gần lò heo, nên người cậu thứ năm là ông Nguyễn Tri Khương đã xin phép nội tổ được đem mẹ Trần Văn Khê về dưỡng thai trong miếng vườn riêng có trồng nhiều thứ hoa đẹp lại xa lò heo, không nghe tiếng heo kêu la khi bị thọc huyết. Mỗi ngày ông lại thổi sáo và đàn tranh cho người em gái là thân mẫu Trần Văn Khê nghe mỗi sáng, trưa, chiều.
Mắt không xem hát bội, không xem đá gà, chỉ thường đọc những sách như "Nhị Thập Tứ Hiếu", "Gia Huấn Ca". Sau khi chào đời, mỗi ngày Trần Văn Khê vẫn tiếp tục được nghe đàn sáo của cậu Năm Nguyễn Tri Khương, và cậu Mười Nguyễn Tri Ân cũng là người thổi ống tiêu rất hay.
Sau khi cúng thôi nôi, được ông nội rước về ở gần ông và hàng ngày nghe ông đờn tỳ bà, cha đờn độc huyền, cô đờn tranh, chú bé đã sống trong một không khí đầy nhạc. Khách tới, ông nội đờn bài Lưu Thủy, để cho chú bé Trần Văn Khê nhảy cà tưng trong tay người cô hay người khách, cho thấy chú bé biết theo nhịp, hễ ông đờn mau, thì nhảy mau, ông đờn chậm thì nhảy chậm.
Sáu tuổi đã biết đờn kìm (đàn nguyệt), đờn mấy bản dễ như "Lưu Thủy", "Bình Bán văn", "Kim Tiền", "Long Hổ Hội". Bảy tuổi đã tập cho các chị diễn viên gánh Đồng Nữ Ban của cô Ba Viện hát bài "La Madelon" để chưng màn đầu cải lương. Tám tuổi biết đờn cò. Mười hai tuổi biết đờn tranh và đánh trống nhạc, biết cùng với người anh họ, anh Ba Thuận, con của cậu Năm Khương chơi trò làm chai, xô giàng, khai xá, đề phang.
Nhưng Trần Văn Khê lại bị mồ côi rất sớm. Ba tuổi ông ngoại qua đời. Năm tuổi đến phiên ông nội. Mẹ mất năm 9 tuổi, và năm sau 10 tuổi cha từ trần.
Cô Ba Viện nuôi ba anh em Trần Văn Khê, Trần Văn Trạch và Trần Ngọc Sương đến ngày khôn lớn. Tuy mới lên 10 tuổi, mà cô ba đã lo việc đào tạo con người cho cháu. Trước hết phải biết đi xe đạp, phải đạp đi lần từ nhà ra ngả ba chim chim, rồi đi đến Xoài hột, rồi tới Mỹ Tho cách nhà 14 cây số. Phải biết lội. Hàng ngày cô nhờ mấy anh em bà con tập cho lội lần đến lúc bỏ bập dừa lội sang sông, cô mới cho tắm sông.
Rồi cho học võ Thiếu Lâm với anh Ba Thuận, với mấy thầy dạy võ trong vùng. Cho học để tự vệ, để khỏi sợ ma, mà không cho đi đấu. Cô lại mua cho một cây đờn kìm nhỏ vừa tay như bên vhâu Âu con nít phải đờn violon 2/4 để khỏi hư ngón. Lúc nào đờn chơi, cô cũng nghe và vừa sai là sửa liền.
Thời kỳ học tập
Sơ học
10 tuổi đậu Tiểu học. Sang Tam Bình - Vĩnh Long nhờ người cô thứ năm nuôi. Đến Tam Bình, Trần Văn Khê được học chữ Hán trong ba năm với nhà thơ và nhà nho Thượng Tân Thị và trong kỳ Sơ học năm 1934 tại Vĩnh Long được đậu Sơ Học có phần Hán Văn. Cả tỉnh chỉ có Trần Văn Khê và Nguyễn Trọng Danh được đậu bằng chữ Hán.
Trung học
Vào trường trung học Trương Vĩnh Ký năm 1934, được cấp học bổng. Năm nào cũng đứng đầu lớp, và năm thứ tư học Pháp văn với ông Champion, được chấm đậu kỳ thi tuyển một học sinh xuất sắc nhứt trong năm đệ tứ để được du lịch trên chiếc xe lửa xuyên Việt năm 1938 từ Saigon đến Hà nội, ghé qua Phan Thiết, Tourane (Đà Nẵng), Nha Trang, Huế. Thêm một cái may trong đời học sinh là được học Việt văn và Hán văn với Giáo sư Phạm Thiều.
Đậu tú tài phần nhứt năm 1940, thủ khoa phần nhì năm 1941, và nhờ vậy được Giải thưởng đặc biệt của Đô Đốc Decoux, để đi viếng cả nước Cao Miên (Kampuchea) xem Chùa Vàng, Chùa Bạc tại Nam Vang, viếng Đế Thiên Đế Thích và trên đường về Việt Nam, ghé Hà Tiên. Nhờ thầy Phạm Thiều giới thiệu, được nhà thơ Đông Hồ tiếp đãi trong một tuần, dẫn đi xem thập cảnh mỗi nơi được nghe một bài thơ hay do thi sĩ Đông Hồ đọc để vịnh cảnh đẹp.
Trong lúc học tại trường trung học Trương Vĩnh Ký, đã cùng Lưu Hữu Phước, Võ Văn Quan lập dàn nhạc của trường, và dàn nhạc của học sinh trong Câu lạc bộ học sinh mang tên là Scola Club của Hội SAMIPIC (Đức Trí Thể Dục Nam Kỳ).
Trần Văn Khê chỉ huy hai dàn nhạc đó, vừa phối khí dàn nhạc dân tộc có chen đàn Tây như mandoline, ghi-ta (guitar), vừa diễn trong khuôn khổ dàn nhạc Scola Club, những bài hát Tây loại "Les Gars de la Marine", "Sunset in Vienna", vv… làm trưởng ban tổ chức lễ Ông Táo trước ngày lễ nghỉ vào dịp Tết Ta, Tổng thư ký hội Thể Thao, và giữ tủ sách của trường trong ba năm Tú Tài.
Được học bổng của chánh phủ thuộc địa, lại được bổng đặc biệt của hội SAMIPIC, Trần Văn Khê ra Hà Nội học y khoa.
Đại học
Tại Đại Học Hà Nội, cùng với các bạn Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Phan Huỳnh Tấng (nay đổi thành Phạm Hữu Tùng), Nguyễn Thành Nguyên, hoạt động trong khuôn khổ của Tổng Hội Sinh Viên mà Chủ tịch là Dương Đức Hiền và sau này là Phạm Biểu Tâm.
Trần Văn Khê đứng trong ban tổ chức đêm hát trường đại học hằng năm, không được học nhạc Tây phương bao giờ, chỉ học dương cầm (piano) vài giờ với Bình Minh, con gái của Đốc Công Đức, sau tự học piano, mà dám phê bình các nhạc sĩ trong dàn nhạc trường đại học, mà phê bình đúng, nên được các nhạc sĩ cử làm chỉ huy dàn nhạc trường đại học.
Trần Văn Khê thừa dịp đó để có thể, ngoài những bản thông thường của nhạc Tây phương như «La Veuve Joyeuse», «Marche Turque», «Monument Musical»,v.v. giới thiệu những bài hát thanh niên và lịch sử của Lưu Hữu Phước.
Trần Văn Khê và Lưu Hữu Phước tập cho học sinh trường Thành Nhân hát bài hát «Thiếu Sinh», các cô trường Đồng Khánh hát bài «Thiếu Nữ Việt Nam», sinh viên Đại Học Hà Nội hát bài "La Marche des Etudiants", và đầu năm 1943, dựng ca nhạc kịch "Tục Lụy" (Thơ của Thế Lữ, nhạc phổ Lưu Hữu Phước) với nữ sinh trường Đồng Khánh Hà Nội, hè 1943, dựng ca kịch "Tục Lụy" với nữ sinh trường áo tím Nữ học đường (sau đổi thành trường Gia Long cho tới năm 1975 đổi thành trường Nguyễn Thị Minh Khai).
Trần Văn Khê tham gia phong trào Truyền bá quốc ngữ trong ban của bà Hoàng Xuân Hãn, "Truyền bá vệ sinh" của các sinh viên trường Thuốc, và cùng các bạn Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng tổ chức những chuyến "Đi Hội Đền Hùng", và đi viếng sông Bạch Đằng, Ải Chi Lăng, đền Hai Bà.
Lập gia đình và hoạt động xã hội
Năm 1943, Trần Văn Khê lập gia đình với Nguyễn Thị Sương, người bạn gái học cùng lớp Triết ở trường Pétrus Ký. Bà Sương là một trong bốn nữ sinh học ban Tú Tài của trường con trai Pétrus Ký vì lúc đó trường Áo Tím không có lớp trình độ trung học nhị cấp như bây giờ.
Nguyễn Thị Sương rất giỏi về triết lý, bài viết đã từng được trên đài phát thanh. Lúc đó còn đang học trường thuốc, Trần Văn Khê nghe lời người cô Trần Ngọc Viện, người đã lo cho ăn học từ nhỏ tới lớn, để lập gia đình, với hy vọng có con trai nối dòng họ Trần. Trong gia đình họ Trần, thân phụ Trần Văn Khê đã qua đời sớm, để lại hai trai là Trần Văn Khê và Trần Văn Trạch (từ trần năm 1994 tại Paris, Pháp).
Nếu không may hai cậu trai ấy qua đời mà chưa có con trai nối dòng thì dòng họ Trần sẽ tuyệt. Nghe theo lời của cô, Trần Văn Khê chịu lập gia đình. Trần Văn Khê yêu cô Nguyễn Thị Sương, bạn học cùng lớp Tú tài ở trường Pétrus Ký, người con gái thùy mị, dễ thương, học giỏi nhứt bên phía nữ, con gái đầu lòng của ông Hanh (Nguyễn Văn Hanh), giáo viên tại Saigon và sau đó làm đốc học tại Thủ Đức.
Hình cưới Trần Văn Khê và Nguyễn Thị Sương (1943) |
Vào mùa hè năm 1943, sau mấy năm đeo đuổi hình bóng người con gái miền Nam kiều diễm, hiền hòa, Trần Văn Khê đã cùng Nguyễn Thị Sương sánh duyên, mang lại cho dòng họ Trần 4 đứa con: hai trai (Trần Quang Hải hiện là nhà nghiên cứu nhạc dân tộc tại Paris, Trần Quang Minh hiện là kiến trúc sư ở Sài Gòn) và hai gái (Trần Thị Thủy Tiên hiện sống tại Paris, và Trần Thị Thủy Ngọc, nữ nhạc sĩ đàn tranh và làm việc cho một ban nghiên cứu Đông Nam Á của trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học ở Paris).
Sự hy sinh cao cả của người vợ hiền suốt thời gian tranh đấu cho đất nước đã giúp cho Trần Văn Khê làm tròn sứ mạng của một thanh niên yêu nước có đủ thì giờ tranh đấu. Từ 1949 khi Trần Văn Khê lên đường sang Pháp để lại quê nhà một vợ, 3 con thơ dại và một đứa con còn nằm trong bụng mẹ, người vợ đã trở thành cô giáo dạy Pháp văn và Anh văn để nuôi và dạy dỗ 4 con cho tới ngày trưởng thành.
Sự hy sinh đó đã được đền bù xứng đáng là các con ngày nay đều thành danh, mang lại cho đất nước những tiếng thơm tốt đẹp qua những thành quả gặt hái khắp năm châu bốn biển của con trai đầu lòng Trần Quang Hải .
Mùa thu năm 1943, sau khi thi đậu đầu từ năm thứ nhứt đến năm thứ nhì trường Thuốc, đã bắt đầu chuẩn bị thi ngoại trú (Externe des Hơpitaux) thì nhiều sự kiện làm Trần Văn Khê phải xin thôi học để trở về Nam. Thứ nhứt là tại vấn đề sức khỏe: bị rét rừng rất nặng. Trần văn Khê không có vi trùng lao trong cơ thể thử theo cách tiêm dưới da (intra dermo) cũng không thấy có vi trùng, thì khi học đến những bịnh truyền nhiễm, thì không đủ sức để kháng cự.
Thứ hai là lúc đó có phong trào "Xếp bút nghiên". Lưu Hữu Phước đặt nhạc và Huỳnh Văn Tiểng viết lời bản nhạc "Xếp bút nghiên" đã được các sinh viên thời đó hát hăng say .
… Lúc quê hương cần người
Dứt là tơ vương
Giã trường lên yên…
Nhiều bạn trong đó có Lưu Hữu Phước và Huỳnh Văn Tiểng đã rời nhà trường, không phải lên yên ngựa mà lên xe đạp đi về Nam bằng xe đạp. Trần Văn Khê lúc đó đau rét rừng mới hết, còn yếu, nên về Nam bằng xe lửa.
Lý do thứ ba là lúc ấy bắt đầu có nạn đói tại miền Bắc. Trần Văn Khê và Lưu Hữu Phước định về Nam để lập một gánh hát sinh viên đi các tỉnh vừa giới thiệu bài hát thanh niên, lịch sử của Lưu Hữu Phước, vừa góp tiền mua gạo gởi ra cứu đói ngoài Bắc. Và gánh hát không chuyên nghiệp và lưu động của sinh viên đã đi trong mấy tháng tại các tỉnh miền Đông và miền Tây để hát.
Về Nam, cùng với các bạn sinh viên, Trần Văn Khê tham gia tổ chức "Đêm Lam Sơn" tại Sài Gòn, để ủng hộ học sinh trại "Suối Lồ Ồ". Rồi tham gia phong trào "Thanh Niên Tiền Phong".
Đầu năm 1944, Trần Văn Khê dạy học tại hai trường tư lớn nhứt tại Sài Gòn: trường Lê Bá Cang và trường Nguyễn Văn Khuê.
Ngày 13 tháng 5 dương lịch, năm 1944, Trần Quang Hải, con trai đầu lòng của Trần Văn Khê ra đời tại nhà bảo sanh Thủ Đức. Lưu Hữu Phước đã viết một ca khúc «Trần Quang Hải bao nỗi mừng» để chào mừng con trai đầu tiên của người bạn chí thân của mình.
Trần Văn Khê và Nguyễn Thị Sương (1949) |
Ba tháng sau, cô Ba Viện, người cô và cũng là người ơn đã nuôi nấng, dạy dỗ Trần Văn Khê từ lúc mới mồ côi đến khi trưởng thành, qua đời, chưa kịp thấy mặt đứa cháu trai nối dòng họ Trần.
Các trường tản cư xuống tỉnh. Trường Pétrus Ký do Giáo sư Đặng Minh Trứ làm Giám đốc, được chuyển về Bến Tre. Trần Văn Khê trong khi chuẩn bị dạy trường ấy, dạy học trường tư thục của bác sĩ Nguyễn Văn Còn.
Lúc ấy, ngoài việc dạy học, còn tham gia Ban tuyên truyền của tỉnh Bến Tre cùng với Đặng Ngọc Tốt, đi các nơi trong tỉnh Bến Tre, Sa Đéc. Anh Đặng Ngọc Tốt diễn thuyết, Trần Văn Khê hát các bài nhạc của Lưu Hữu Phước để nhắc lại những trang lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam...
Theo Băng Châu/Dân trí